Độc hành Phạm Phú Hải

655

Nguyễn Nhã Tiên

(Vanchuongphuongnam.vn) – Thi sĩ Phạm Phú Hải (1950- 2009) quê Điện Ngọc, Điện Bàn, Quảng Nam. Trong Bách khoa toàn thư mở Wikipedia ghi: “Ông sở hữu giọng thơ “kỳ dị”, cộng với bệnh tâm thần, và gương mặt hao hao giống Trung niên thi sĩ nên được coi là “Bùi Giáng thứ 2”. Ông chưa từng đi tu, nhưng do thơ có phong vị Thiền, lại chỉ chuyên chú làm thơ nên còn được gọi là “Thiền sư thi sĩ”.

Nhà thơ Phạm Phú Hải

Không hiểu sao mỗi khi lần giở thơ Phạm Phú Hải ra đọc, tâm thế tôi lại thường rơi vào cái trạng huống ám ảnh bởi sự huyền nhiệm. Huyền nhiệm về thi sĩ, huyền nhiệm về thế giới, huyền nhiệm về tình yêu. Tôi cuồng tín chăng, hay là bị mê hoặc bởi những tiếp xúc, gặp gỡ Phạm Phú Hải (lúc nhà thơ còn sinh thời). Cũng như Bùi Giáng thi sĩ “Thân con như thể thân rơi. Một đêm mưa trút xuống đời cuồng điên”, cố nhiên Phạm Phú Hải không như Bùi thi sĩ tuổi tên đã sáng chói trên văn đàn trong và ngoài nước. Nhưng, kể từ cái “đêm” định mệnh Mưa trút xuống đời cuồng điên ấy, những thi sĩ kiểu như Bùi Giáng, Nguyễn Hữu Ngư, Nguyễn Đức Sơn, Trần Đới… mỗi người một cốt cách, họ làm “mưa gió” trên cuộc đời này theo kiểu cách “cuồng điên” riêng của từng thi sĩ. Có kẻ tới tấp suồng sã, có kẻ tỉ tê âm ỉ, có kẻ ầm ào như bưng thùng mà trút, lại có kẻ mưa thúi trời thúi đất kiểu như mưa Huế, để từ đó mà sinh thành những huyền thoại!

Huyền thoại mà tôi muốn nói đến là theo ý niệm của Charles Mauron – một nhà phê bình văn học Pháp lừng danh, ông thuộc lớp môn đồ của Sigmund Freud, dường như cả đời Mauron lao tâm khổ tứ để khám phá cái mà ông gọi là nhân cách vô thức của nhà văn, bằng cách đối chiếu tác phẩm với cuộc đời của họ. Thử bắt chước theo những bậc tiên đã dày công khám phá cái thế giới “mịt mù” vô thức của người nghệ sĩ, tôi nói theo lối ẩn dụ của Bùi thi sĩ “Một đêm mưa trút xuống đời cuồng điên”. Mưa Bùi Giáng là như vậy, còn mưa Phạm Phú Hải là mưa kiểu thế nào đây?

“Những đêm mưa bão tưng bừng. Đầy căn gác nhỏ cây rừng mọc ra… Người ta là người với ta. Có bao nhiêu đó để mà trừng nhau. Này cô kia ở trên lầu. Áo thơm cô mặc có màu thịt tôi. Thịt tôi cô đã tường rồi. Bữa tôi cởi hết da ngồi cô xem. Đất trời cũng thứ lèm nhèm. Bão mưa như thể thằng điên lộn đầu” (Mưa bão).

Thơ như vậy mà diễn dịch nó ra, xác lập hoặc định vị cho nó một vị thế tường minh này hay huyễn tưởng kia, thì chẳng khác nào lấy chân trời bao la kia mà nhốt vào con mắt hữu hạn thịt xương. Một thứ nhãn quan có tốt tuyệt vời đến nhường nào, nói theo cách của những nhà dự báo thời tiết thì tầm nhìn xa (nếu trời tốt) cũng chỉ quan sát trong cái giới hạn hữu hình trên mười kilômét là cùng. Vậy chân trời của Phạm Phú Hải là đâu? Tôi thử “lý luận” theo kiểu (thơ) Phạm Phú Hải:

“Có bàn chân dài hơn con đường. Nên chân trời là những đốt xương. Của ai bỏ lại ngàn năm trước. Sửng sốt kêu lên tiếng dị thường” (Thi sĩ).

Vâng, chân trời của nhà thơ nó vừa cụ thể, vừa siêu hình như thế đấy, nghĩa là muốn đến cái miền thẳm ấy thì anh (hay chị) phải đạt được cái “tiêu chuẩn” của kẻ có bàn chân dài hơn con đường. Mà từ cổ – kim – đông – tây từng mấy ai, đã mấy ai bước những bước chân huyền nhiệm như thi sĩ. Vọng tưởng hay là gì tôi không rõ, nhưng quả thật có một chân trời (người đi) đã bỏ lại thanh âm (dấu) trên đường. Nhưng ở đây ý niệm biểu đạt không là “những đốt xương” mà là “con người có đế giày bằng gió” – một “thực thể ngôn ngữ” của Rimbaud trong tác phẩm Illuminations (Thần cảm). Có lý do gì ở đây tương quan, hay là khoảnh khắc xuất hiện mang hơi hướm thần ngôn (Logos) mà các nhà phân tâm học thường cho rằng đấy là tình huống xuất hiện của thời điểm huyền thoại nào đó (tinh anh phát tiết) ghi dấu cường độ cảm xúc đặc biệt.

“Lạnh mùa thu lạnh trong núi đá. Có con cá nhỏ chết bên cầu. Có con chim nhỏ vì vui quá. Cũng chết bên cầu ấy bữa xưa. Có một thư sinh lên núi đá. Hỏi thăm đường tới chốn bất lai. Trăng khuya úp mở sau ngàn lá. Bướm đỏ đàn đàn chấp chới bay. Có lão tiều phu trong núi đá. Mười năm say hương quế, quên về. Lều dựng gió đầy rung mái gió. Một bầu cổ nguyệt chảy tràn khuya.” (A, AA, AAA, AAAA…).

Có thể nói, thế giới thơ Phạm Phú Hải là một thế giới khu biệt nhuộm màu ngôn linh. Có người vì yêu quá gọi thi sĩ là “Bùi Giáng thứ hai”, yêu như thế thì khác nào “bằng mười phụ nhau”. Tôi không muốn so sánh Phạm Phú Hải với bất kỳ ai, con đường thi sĩ ngao du qua cuộc đời này là con đường lặng lẽ và độc hành. Mà Phạm Phú Hải đã nói: “Một năm có bốn mùa nhưng tôi biết có một mùa thứ năm/ Không gian có bốn phương nhưng tôi biết có một phương thứ năm/ Tôi đang sống/ Trong mùa và phương không tên gọi đó”. Đấy là sự xác lập, mà có những lúc vì kính trọng niềm cô đơn chon von chót vót thăm thẳm ấy tôi cũng tập tành nghêu ngao: Rồi chiều qua, rồi ngày qua. Bụi rơi xuống đất hương hoa lên trời. Em còn buồn nữa hay thôi. Núi cao là để phận đời chon von (NNT).

Có đến hàng ngàn bài thơ Phạm Phú Hải đã viết, tự đánh máy thành tập, hoặc những bài anh viết phát tán khắp mọi anh em, những kẻ anh quen, những người anh ký gởi tâm tình. Bao nhiêu rồi có khi chính thi sĩ cũng không thể nào nhớ nổi. Nhớ lại lúc sinh thời của anh, vào những ngày anh nằm trên giường bệnh, tôi và một người bạn khá là thân thiết với Phạm Phú Hải – chị Thái Ngọc Loan, chúng tôi đến thăm thi sĩ, nhân tiện mang báo biếu và tiền nhuận bút đến cho anh. Đau nằm liệt giường, vậy mà Phạm Phú Hải đòi ngồi dậy lấy kính đeo vào mắt để đọc thơ, ánh nhìn trong veo của thi sĩ vẫn sáng tinh anh long lanh một cách lạ thường. Hình ảnh này khiến tôi chợt nhớ tới nhà thơ Trinh Đường lúc ông bệnh nặng gần đến giờ lâm chung, vậy mà khi nghe Cúc Tần (con gái nhà thơ) bảo có chúng tôi đến thăm, đôi mắt của ông cũng ánh lên sáng long lanh như thế, và rồi ông cố lần tay xuống gối lục lọi tìm thơ để đọc. Đến khi nghe con gái (Cúc Tần) bảo: “Con đã đem hết bản thảo của bố về nhà rồi” (đấy là những bài di cảo nhà thơ đã viết trên giường bệnh), lúc ấy ông mới chịu nằm yên. Những con mắt thơ ánh lên ánh sáng cuối cùng của vô thức, năng lượng đó cũng có thể giải thích cho ta hiểu khả năng thăng hoa của một tính cách mà Freud từng gọi đấy là: Tố chất bẩm sinh bí mật.

Nhưng cho dù mọi cách nghiên cứu hay lý luận phê bình nào về thơ Phạm Phú Hải chăng nữa, thì với tôi, hầu như mọi kết quả thu hoạch được chỉ là chút ánh sáng yếu ớt mỏng manh chiếu vào mênh mông một cõi thơ quá đỗi dị thường:

“Có một hôm kia máu chợt buồn. Cơn đau trồi máu lạnh trên sông. Trồi tôi giữa một bầy phong vũ. Nhe hết nanh ra gặm hết hồn. Tôi ở đây giữa một bầy cô độc. Tôi khóc theo từng tiếng hú xưa. Rồi tôi cũng hú như tôi đã. Khóc rống khi đưa gió nhập mùa. Tôi vọng tíêng tôi về núi đá. Núi đá ngàn năm vẫn lặng im. Mấy ai hiểu được hồn ưu uất. Của kẻ qua sông tự thả chìm” (Máu chợt buồn).

Vâng, mấy ai hiểu được. Có hỏi thi sĩ thì đôi mắt tinh anh trẻ thơ kia chợt ánh lên. Và đấy là một sự trả lời. Thơ ấy, có thể nói, chẳng phải thi sĩ chải chuốt, kiểu sức gắng gỏi làm cho nó hay, cho nó đẹp, mà dường như tự nó là một cảnh giới tinh anh vốn hay, vốn đẹp, tự phát tiết những trận cuồng phong từ một tâm hồn thi ca triệt để trút ra bộc lộ tiếng thơ thành một thứ ngôn linh vang dội và bất tuyệt! Cái hay, có thể nói đạt tới mức siêu việt như tự đất trời sinh nở ra thi sĩ, để Phạm Phú Hải dốc hết máu xương mà “Câu thơ nhỏ đỏ con tim. Ta lê theo suốt cuộc tìm đớn đau”!

N.N.T