Như một duyên may tình cờ, tôi được đọc Bế Kiến Quốc khá tập trung: ấn phẩm từ dự án “Công bố và phổ biến các tác phẩm văn học được Giải thưởng Nhà nước” của Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Cũng đã 20 năm rồi, Bế Kiến Quốc đi xa. Nhưng thơ ông vẫn vẹn nguyên sức sống, tinh khôi niềm tin yêu sự sống.
Nhà thơ Bế Kiến Quốc.
Cuộc đời và con người, người thân yêu, bạn bè, – dù không phải luôn trên đường trải gấm hoa, dù vẫn cảnh giác với mình “gừng cay muối mặn có bền mãi đâu”- những cảm hứng chính của thơ ông, mãi là bài ca ngợi ca cuộc sống kỳ tuyệt. Không phải kiểu “lạc quan” hay “bi quan”, những khoanh vùng thô kệch hồn người, tình yêu cuộc sống trong thơ ông là thuần khiết nguồn mạch, miên mẩy năng lượng khởi sinh. Nó tự nhiên, quy luật.
Tôi đi. Và tôi biết
Tin yêu vào cuộc đời
Dù tôi đến chậm nhất
Người đợi còn đợi tôi… (Có một người đợi tôi)
Và điều này quan trọng: con người – một thực thể tự nhiên – không thụ động trước tự nhiên, quy luật, chờ hưởng phần, mà phải sống có trách nhiệm với cuộc đời: chính con người can dự vào những thay đổi không chỉ số phận mình mà cả chu chuyển đất trời:
Mặc kệ hết! Cái mầm xanh rất mới
Sẽ gọi bao chồi nõn thức trong vườn.
Mùa đông nhất định qua, nhất định mùa xuân tới
Nhưng nhờ anh, mùa xuân tới mau hơn…
(Đến sớm)
Với Bế Kiến Quốc, thơ là sống. Vẻ đẹp thơ ông là vẻ đẹp sống. Thái độ sống, đương nhiên.
Từ nhận thức đơn giản mà thấu tận những hy sinh, dâng hiến, những hàm ơn: cuộc đời không hề “tự nhiên xanh”:
Vươn mãi vào bề sâu
Cái rễ non tìm đường cho cây
Qua sỏi đá có khi tướp máu
Hướng mãi lên chiều cao
Cái cành non vượt mưa đông, nắng hạ
Nảy chiếc lá như người sinh nở
…
Chỉ đất yêu cây thì đất biết
Những cơn đau nơi cuối rễ đầu cành.
(Cuối rễ đầu cành)
Đến những ngẫm ngợi về ý nghĩa cuộc đời, về lựa chọn sống. Không ít những tự vấn, những loay hoay, xác tín: “Con đường gặp dòng sông. Nhưng dòng sông không cần biết con đường nghĩ gì. Sông còn bận, trôi đi, và biển khơi là chân trời của nó. Cơn khát của dòng sông chẳng bao giờ nguôi. Nó chưa hề biết dừng lại nghỉ ngơi…/ Tôi sẽ làm gì đây? Tôi đã mải miết theo con đường suốt qua tuổi trẻ. Giờ lại gặp dòng sông…” (Con đường gặp dòng sông). “Còn thao thức gió, là còn…/ Sông ơi, xin trở lại nguồn làm mưa/ Xin nguyên vẹn với mình xưa/ Sắt son theo đuổi giấc mơ thuở nào!…” (Nửa đêm chuyển gió). “Thuần khiết một niềm tin/ Tôi bước vào ngôi đền/ Và thắp lên/ Trên mười ngón tay mười ngọn nến/ Tôi chỉ có đời tôi/ Dâng hiến/ Không nói một lời” (Vào một ngôi đền)…
Nhưng không dễ dàng gì. Bế Kiến Quốc đã rất chân thành ghi lại những khoảnh khắc đơn độc, buồn quạnh của kiếp người: “Tiếng ai xa gọi/ Từ thuở có người/ Đêm nay vọng tới/ Khiến đêm thật dài…” (Chợt nghe). “Đôi khi suốt buổi chiều ngồi nhìn vào mắt Lou/ Tìm thấy niềm cảm thông/ Mắt Lou buồn thật buồn/ Thương con người cứ phải làm con người/…/ Đôi khi suốt buổi chiều Lou nhìn vào mắt tôi/ Và đôi khi Lou muốn thử làm người…” (Thơ cho Lou).
Và tôi hiểu vì sao Bế Kiến Quốc “gặp gỡ”, chia sẻ, đồng cảm với rất nhiều văn nghệ sĩ mọi thời trong thơ mình. Từ Cao Bá Quát, Đào Tấn, Văn Cao, Phùng Gia Lộc, Nguyên Hồng, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Thành Chương… đến A. Pushkin, Sergey Yesenin, M. Gorky, Paul Éluard, Nazim Hikmet… Đây, Ở Tuy Hòa nhớ thơ Trần Mai Ninh ông viết:
Sẽ lãng quên tất cả, nếu cứ sống lặng lẽ, thờ ơ!
Trần Mai Ninh, chuyên cần và phóng túng
Sống như thế rồi anh nằm xuống
Còn câu thơ mang gió tới cho đời…
Hoặc Dưới núi Huỳnh Mai, nghĩ về Đào Tấn:
Trong một thời quá it tình thương yêu
Đã thương yêu hết lòng
Giữa một đời quá nhiều điều phải nghĩ
Đã nghĩ tới cùng (Dù khi đúng khi sai)
Mộ một người như thế ở trên núi Huỳnh Mai
Nhà từ khúc, nhà thơ, nhà viết kịch
Người đã sống một thời khó khăn cùng đất nước
Lòng vương mang gánh nghĩa gánh tình*…
Đó là sự đồng điệu chứ không chỉ cảm nhận: viết về người mà cũng là bộc bạch gan ruột mình, nhận chân lẽ sống mình!
2. Tôi có nhắc phần trên Xergey Yexenin, thi sĩ Nga vĩ đại tự kết thúc cuộc đời ở tuổi 30, Bế Kiến Quốc viết hẳn bài thơ cảm – thương, có câu “Anh bỏ đi, vì chẳng biết tin gì”. Thì đúng, với một người đã gửi lại vần thơ “Vĩnh biệt” nổi tiếng: “…Thôi chào nhé bạn ơi, không một lời bịn rịn/ Bạn thân yêu, xin bạn đừng buồn – / Trên đời này chết là điều chẳng mới/ Nhưng sống, thật tình, chẳng mới hơn” (Anh Ngọc dịch), hậu thế có thể nghĩ tới sự bế tắc, tuyệt vọng… Xin không bàn. Chỉ biết rằng, thi sĩ Nga từ năm 15 tuổi đến khi tự tận đã 3 lần cưới vợ, và hàng chục cuộc tình, sống đời dữ dội, quyết liệt; đoạn cuối trượt dài trong rượu và trầm cảm, dù nhiều người phụ nữ yêu ông vô điều kiện, cũng không thể giúp thi sĩ buông tay.
Còn Bế Kiến Quốc khác: tình yêu tìm thấy thật thiêng liêng, nhiệm mầu. Nói cách bây giờ, lẽ sống và tình yêu – hai trong một – làm nên sự nghiệp thơ ông!
Tôi liên tưởng đến thi sĩ Nga không phải từ bài thơ sẻ chia nhiều phần nuối tiếc của Bế Kiến Quốc với quyết định “từ giã” của Yesenin, mà bởi thơ tình Bế Kiến Quốc ngọt ngào, đằm thắm âm hưởng thơ Nga. Nó riêng biệt: không hề còn bóng dáng chất “lãng mạn” Thơ Mới đã đành, mà cũng khác cách biểu hiện nhiều ẩn dụ kiểu “thuyền/ bến”, “non/ nước”… đặc trưng Phương đông quanh mình.
Yêu và được yêu là một điều kỳ diệu. Bế Kiến Quốc hơn một lần bật thốt sự hàm ơn ân sủng đặc biệt này: “Anh chắp tay anh lạy tạ đất trời/ Đã mang em ban tặng cuộc đời anh” (Bỗng có em). “Môi anh bập bẹ anh quỳ trên cát/ Cảm ơn Đời đã cứu vớt đời anh” (Cánh buồm). Mọi cung bậc của tình yêu chừng như bất tận hiện diện trong thơ ông. Những nhớ thương, mong đợi, mừng vui gặp mặt, mơ, tưởng, lo âu, hờn ghen… trở đi trở lại, mỗi lúc một khác, mà cụ thể từng khoảnh khắc, tâm trạng.
Lại nói thêm: với Bế Kiến Quốc, yêu là sống. Một đời sống nhiệm mầu: anh đã là con người khác khi có tình yêu:
Một người khác trong tôi có từ khi em tới
Đưa tôi đi gặp gỡ với chân trời
Tôi tin tưởng tôi yêu tôi ca ngợi
Tôi đón chào một người mới trong tôi.
(Chào đón)
Không chỉ thành con người khác, tình yêu làm đổi thay cả không gian, thời gian, vũ trụ: “Ba ngày chất chứa yêu tin/ Đủ cho ta sống trăm nghìn ngày sau” (Ba ngày). “Chiều ngày hai bảy… chiều thu đẹp/ Vườn nở đầy hoa, trăng suốt đêm…/ Em đã điện rồi – trời đất biết/ Vũ trụ cùng anh ra đón em…” (Bức điện). “Anh muốn sống bình yên cùng hạnh phúc/ Trên mặt em không vướng chút u buồn/ Bàn tay anh âu yếm gạt mái tóc/ Và nhân danh Cuộc Đời mà anh hôn” (Từ giấc mơ)…
Khúc giao hòa hoan ca bất tận này còn tìm thấy cách hóa thân tuyệt đích:
Anh sẽ thay những ngón tay anh bằng những ngón tay em để làm nên một bàn tay mới
Em sẽ đặt trên mắt em những lời anh nói
Ta sẽ nhìn bằng anh và sẽ nghe bằng em
Cảm bằng anh và sẽ nghĩ bằng em
Lấy môi em để cười lấy vai anh để tựa
Sẽ gọi anh là cha sẽ gọi em là mẹ
Ta sẽ gửi những mật mã di truyền cho thế kỷ mai sau. (Trong ngày anh gặp em)
Xin cám ơn nhà thơ Đỗ Bạch Mai – “người yêu dấu” và là người bạn đời thiên thu của Bế Kiến Quốc, khi quyết định cho in tập thơ Đất hứa (dịp 100 ngày mất của ông) – những bài thơ “của Bế Kiến Quốc tặng cho tôi. Chúng tôi đã nghĩ: sẽ cất giữ tập thơ này chỉ để cho riêng mình”. Rồi bà hiểu ra rằng “những vần thơ anh đã viết ra không chỉ thuộc về riêng mẹ con tôi/…/ bởi vì tình yêu của chúng tôi chỉ là một cái cớ cho những bài thơ xuất hiện và tồn tại trong cuộc đời này”. Và đúng như mong muốn của bà, “những bài thơ tình của Bế Kiến Quốc là một quà tặng tình yêu cho những người đang yêu nhau”. Tôi muốn thêm, không cứ gì người “đang yêu nhau”, mà còn là quà tặng cho những người “tin” rằng, tình yêu có thật trong đời!
Hơn trăm bài thơ của gần 9 tháng thời bắt đầu có tình yêu, Bế Kiến Quốc viết cho Đỗ Bạch Mai như những lá thư – thơ, ghi chú ngày tháng bên dưới cho thấy có ngày đến 4-5 bài. Vài đoạn trích dẫn trên, có từ Đất hứa và những tập thơ khác, mà vẫn nguyên chất thơ tình Bế Kiến Quốc, riêng tư đã không còn riêng tư: có một tương thông, gặp gỡ của người yêu nhau muôn thuở. Thì đúng là chuyện của một người nam với một người nữ, nhưng thơ khi đạt đến tiếng lòng riêng khuất nhất, lạ sao, lại thành như nói hộ bao người. Đọc thêm vài “quà tặng” nữa nhé:
Lời yêu mến với em anh nhắc lại
Cho trời cao nhắc lại một trăng vàng
Cho cây cành nhịp thu sang nhắc lại
Ngày yêu nhau ngày ấy sẽ không tàn
Một đóa ngày thắm nở giữa thời gian.
(Ngày kỷ niệm)
Nào biết đâu là đâu
Đầu nguồn hay cuối thác
Người với người yêu nhau
Ta khai trừ sự chết. (Ngày lập xuân)
3. Dễ nhận ra trong thơ Bế Kiến Quốc một tiên cảm về “sự chết”. Ông viết về điều này khá sớm. Chẳng cần lý giải vấn đề ưu tư triết học ngàn vạn năm qua về lẽ sống- chết của nhân sinh, hai mặt có vẻ đối lập ấy luôn là phần kia của nhau, hàm chứa trong nhau. Chỉ là, càng khát khao, tin yêu sự sống, bóng dáng sự chết theo đó, cận kề. “Cuộc đời cho gặp nhau/ Cuộc đời làm ly biệt/ Cái nghĩa lý cao sâu/ Đến giờ tôi mới biết” (Thơ tiễn một người). “Đầu làng cổ thụ/ Đợi ta mà già/ Bạn đừng khuất nữa/ Sông đừng nước qua…” (Nhớ bạn). Nó trái khoáy phải không, chuyện ước muốn sông đời ngừng trôi để mãi còn những người bạn? Cái tình của nhà thơ, thực ra là dành cho tất cả những đẹp đẽ, yêu thương trong cuộc đời này. Cái hiện hữu mong manh luôn được gìn giữ, hoặc lưu giữ, dù chỉ để hy vọng: đó là những khoảnh khắc tâm hồn trở nên bất tử:
Làm sao tìm ra em
Làm sao người gặp được
Tận góc vườn một đóa hoa đơn độc
Không hương thơm không màu sắc không tên
Đừng hái đừng hái hãy chờ bên hoa
Có lẽ em đang tới
Có lẽ vừa đi qua.
(Vườn mơ)
Tôi cứ đi và những gì tôi thấy
Ông kính không kịp ghi thì tâm hồn đã ghi
Những gì thấy trong đời đã giúp tôi giữ lại
Một ánh sáng lâu bền bất kể tháng năm đi…
(Ánh mắt)
Bế Kiến Quốc luôn ý thức cuộc sống nhiều bất trắc, cuộc đời còn nhiều góc khuất, có thể trong “cõi trần phù du”, “tất cả lại thành hư vô”; điều quan trọng là những khoảnh khắc đẹp có thật của cuộc đời (chứ không phải huyễn ảo) hãy mãi còn cho con người, dù còn hay không còn anh:
Buồn làm chi, khi dạ hội còn vui
Em rạng rỡ thế kia, trong ánh đèn chói lọi!
Chỉ cầu mong em đừng nhìn bóng tối
Nơi có anh, và sẽ chẳng còn anh…
(Trong dạ hội)
Không chỉ là những dự cảm, Bế Kiến Quốc đã chuẩn bị cho cuộc ra đi của mình, đẫm đầy yêu thương, trách nhiệm, như đã sống: “Những ngày hôm qua không mất/ Con ơi ta gửi nơi con/ Ngày hôm qua ta vun đắp/ Và con từng ngày lớn khôn/…/ Ta sẽ thành nguồn nước/ Âm thầm bồi đắp cho con…” (Bài không tên số 5).
Rồi đây anh ra đi – người bộ hành đơn độc
Xin em đừng buồn đừng khóc
Anh đã có tình yêu để mang theo
Và những gì anh mơ – sẽ trở thành sự thật
Trên trái đất.
Chẳng thể nào không buồn khi nói lời giã biệt
Cuộc đời ơi! Xin cảm tạ cuộc đời!
Thời gian rất ngọt ngào, chỉ vì còn quá ít
Cuộc đời cuối cùng này
sẽ sống với em thôi…
(Chiều cuối năm ngoài ga)
4. Bế Kiến Quốc “giã biệt” cuộc đời mà ông đã sống, đã yêu tha thiết, đắm say, năm 2002, ở tuổi 53 còn tràn đầy năng lượng. Tôi cắc cớ nghĩ, với tất cả những chuyển động của đời sống và phát triển, sáng tạo mới, nếu được tiếp tục, 20 năm qua, và hôm nay, ông sẽ viết thế nào?
Ông từng sống qua thời gian nan của đất nước: chiến tranh, khó nghèo, hẳn cũng ngấm đủ lẽ bi- hoan của cuộc đời, thời cuộc. Lạ sao, nỗi buồn dường như ông giữ lại cho riêng mình, thảng hoặc mới kín đáo dè dặt chia sẻ đôi chút. Thơ ông là bài ca ngợi ca sự sống, ngợi ca tình yêu bất tận. Bằng cảm xúc chân thành, tươi nõn. Bằng niềm dâng hiến, thuần túy dâng hiến. Được sống, được yêu là ân sủng lớn nhất của cuộc đời này. Thơ Bế Kiến Quốc do vậy, luôn mới, từ xuất phát điểm chứ không cần các hình thức thể hiện. Ngay cả những câu có vẻ lạ: “Thấy thương con nhện lang thang/ Chăng tơ/ cứ tưởng thời gian sa vào” (Hoa tầm xuân); hoặc cách nói khác: “Đầu làng cổ thụ/ Đợi ta mà già…” (Nhớ bạn)… hoàn toàn cũng là suy nghiệm hướng tới niềm yêu, sự tận hiến của đời người.
Bế Kiến Quốc ngẫm ngợi nhiều về dòng sông, một liên tưởng quen thuộc với đời sống. Dù thế nào, sông vẫn luôn chảy: “Hãy nhìn anh như nhìn một dòng sông/ Luôn luôn chảy luôn luôn đi tới”. Thơ ông, không cần tân kỳ câu chữ, vẫn không cũ. Vẻ đẹp trần thế – những lộng lẫy sống và yêu – những “phút giây huyền diệu” không cũ bao giờ!
Phải, Bế Kiến Quốc là dòng sông mãi dào dạt chảy:
Con sông trôi ở cánh buồm
Gió thành dòng nước chiều hôm tím dần
Bên bờ ngồi duỗi đôi chân
Một mình lặng ngắm cõi trần phù du…
…
Vầng trăng chợt vượt qua mây
Cả dòng sông
sáng ngất ngây đất trời…
(Bên sông)
Theo Lê Hoài Lương/Văn nghệ