![]()
Tôi biết nhà phê bình văn học Ngô Thảo đã lâu, nhưng được gặp, trò chuyện với ông thì mãi đến sau này. Tác phẩm của Ngô Thảo thì có nhiều, trải dài trong khoảng hàng chục năm sáng tác, nghiên cứu phê bình, trong đó có hai tác phẩm Nhà văn bàn về nghề văn và Đời người đời văn được trao Giải thưởng Nhà nước.

Trong cuốn sách Bốn nhà văn nhà số 4, Ngô Thảo phác thảo chân dung nhân vật khá tài tình, từ tác phẩm, cách kể chuyện tự nhiên
Với các tập sách mới xuất bản gần đây của Ngô Thảo, tôi có ấn tượng với cuốn Bốn nhà văn nhà số 4 do NXB Hội Nhà văn ấn hành, gồm chân dung các nhà văn: Nguyễn Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Thu Bồn – cả bốn nhà văn đều được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.
Đó là những tên tuổi lớn trong văn học cách mạng và kháng chiến. Trong bài viết này, tôi chỉ đề cập về nhà thơ Thu Bồn, một trong bốn nhà văn ở nhà số 4 qua góc nhìn của nhà phê bình văn học Ngô Thảo.
Lưu giữ ký ức bạn văn
Có thể nói, Ngô Thảo là người rất ân cần, chu đáo với bạn văn, kể cả sau khi họ đã qua đời, ông là người lập hồ sơ Giải thưởng Hồ Chí Minh cho nhà thơ Thu Bồn; có mặt bên giường bệnh khi nhà văn Nguyễn Minh Châu qua đời…
Trong cuốn sách Bốn nhà văn nhà số 4, Ngô Thảo phác thảo chân dung nhân vật khá tài tình, từ tác phẩm, cách kể chuyện tự nhiên. Từ một lần ghé đất mũi Cà Mau, hay những lần về miền Trung, ông nhớ đến các nhà văn, rồi cứ thế là viết, viết như là chuyện kể hằng ngày về những người bạn văn.
Thu Bồn (1936-2003, tên thật: Hà Đức Trọng), quê ở Điện Bàn, Quảng Nam (nay là thành phố Đà Nẵng) là nhà văn tham gia cách mạng sớm, từ khi mới 12 tuổi và ông luôn có mặt trên các chiến trường quyết liệt, từ Khu V, Tây Nguyên, Quảng Trị 1972, biên giới phía Bắc, Tây Nam Bộ, nước bạn Campuchia.
Nhân chuyến về dự ngày giỗ và đêm tưởng niệm Thu Bồn do chị Đỗ Thị Thanh Thu (vợ nhà thơ) và con trai Hà Băng Ngàn đứng ra tổ chức nhân dịp Thu Bồn được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2017 ở xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam với sự tham dự của cả ngàn quan khách, bạn bè, người thân và bà con quê nhà, Ngô Thảo đã liên tưởng đến tính cách và tầm vóc, sự gắn bó của Thu Bồn với đất nước, quê hương. Ông nói: “Chỉ có thể là tài năng Thu Bồn mới có sức tập hợp tự nguyện ấy từ bạn bè và người hâm mộ”.
Cánh rừng nguyên sinh của văn chương Việt
Nói đến nhà thơ Thu Bồn là nói đến sức sáng tạo không ngừng nghỉ. Ngô Thảo nhấn mạnh: “Người ta thường ví nhà văn, nhà thơ lớn với cây đại thụ, nhưng sự nghiệp sáng tác đồ sộ, gồm nhiều thể loại của Thu Bồn gợi người đọc liên tưởng đến một cánh rừng nguyên sinh, bởi sự phóng khoáng, hoang dã, gắn bó với núi rừng Tây Nguyên đầy bí ẩn và kỳ lạ. Còn hơn cả một cánh rừng! Bởi đất rừng mất cây là mất vĩnh viễn. Cánh rừng nguyên sinh được sinh thành từ tâm huyết, trí tuệ, tình cảm, sự từng trải, tài năng, sức lao động của Thu Bồn chắc sẽ còn mãi”.

Nhà thơ Thu Bồn (phải) và bạn bè văn nghệ ở nhà của thi sĩ Phùng Quán, 1995. Ảnh: Tư liệu
Lần theo từng tác phẩm, từ những tiểu thuyết, trường ca nổi tiếng (10 trường ca, 10 tiểu thuyết), Thu Bồn còn có nhiều tập thơ được bạn đọc đón nhận như: Tre xanh, Mặt đất không quên, Một trăm bài thơ tình nhờ em đặt tên, Tôi nhớ mưa nguồn, Đánh đu cùng dâu bể…, từ đó hiện lên một nhà văn với tầm vóc cao lớn, một sức làm việc đáng nể, một tài năng nhiều mặt, và quan trọng là một cảm hứng sáng tạo thường trực, mãnh liệt.
Trong các tiểu thuyết viết về chiến tranh, cùng với tiểu thuyết Vùng sáng hỏa châu, tiểu thuyết Dưới đám mây màu cánh vạc gồm 2 tập, 800 trang, Thu Bồn viết về cuộc chiến tranh ác liệt ở Quảng Trị vào hồi ác liệt năm 1972 với cuộc đời ngắn ngủi mà trải nhiều thử thách và lập nên kỳ tích anh hùng của Trần Thị Tâm, người đội trưởng du kích kiên cường, gan góc của đội du lích Mỹ Thủy.
Thu Bồn đã dày công miêu tả về cuộc chiến. Trong đó quân địch có lực lượng quân sự áp đảo, với những hành động cực kỳ tàn bạo, đã tàn sát hàng trăm người hòng tận diệt lực lượng và cơ cở cách mạng, dùng máu để dập ngọn lửa cách mạng, nhưng ngọn lửa đó vẫn được ấp ủ, nhen nhóm trong xóm làng từ sau Tổng tấn công Mậu Thân.
Cuộc chiến đấu kiên cường, đầy tài trí thông minh, từng bước tiến công kẻ thù, bám dân diệt địch, đánh tan sự kìm kẹp của địch, giành thế đứng mới của đội du kích và dân làng Mỹ Thủy đã được thể hiện bằng bút pháp hiện thực rất giàu chất thơ, chất sử thi, chân thực đến từng chi tiết mà vẫn đầy sức lãng mạn, bay bổng của người anh hùng; có sức khái quát, có ý nghĩa tiêu biểu cho cả một thời kỳ thử thách, khó khăn.
Trong tác phẩm của Thu Bồn, Trần Thị Tâm được thể hiện một cách hấp dẫn về phẩm chất người anh hùng, vừa có sức sống, nghị lực phi thường, vừa rất gần gũi, đáng yêu. Phải chăng đó vẫn là điều chúng ta hằng mong đợi đối với những tác phẩm viết về người anh hùng?
Cuộc đời lắm nỗi truân chuyên
Có thể nói cuộc đời của nhà thơ Thu Bồn qua tư liệu của Ngô Thảo hiện lên lắm nỗi truân chuyên. Ngô Thảo thốt lên: “Có lẽ không có thời nào, không có một đất nước nào như ở nước ta, bao nhiêu tình yêu đẹp đẻ lại sản sinh ra những sinh ly hoàn chỉnh”.
Đó là Ngô Thảo kể về chuyện tình của Thu Bồn với người vợ đầu – nữ biệt động Sài Gòn Đỗ Thị Thanh Thu, là bạn học cũ của Thu Bồn từ nhỏ ở quê. Quý mến tác giả trường ca Bài ca chim Ch’rao, đích thân Bí thư Khu ủy Khu V Võ Chí Công liên hệ với Thành ủy Sài Gòn xin cô y tá Đỗ Thị Thanh Thu ra Khu V công tác. Kết quả mối tình nồng thắm của họ là sự ra đời của hai đứa con, nhưng đều bị nhiễm chất độc da cam, một đứa mất, một đứa bị bệnh thần kinh. Bởi thế, sau này có thêm mấy đời vợ nhưng Thu Bồn cũng không dám sinh con vì sợ sẽ sinh ra những đứa con tật nguyền.
Âm thầm nén nỗi đau, có lẽ niềm vui còn lại của Thu Bồn là chuyên tâm đi và viết, cho đến khi ông đột quỵ trong một lần về nói chuyện văn chương ở Kon Tum. Ngô Thảo cho biết, những năm cuối đời, sau khi về hưu, Thu Bồn muốn tìm một nơi cứ trú ở thành phố quê nhà (Đà Nẵng), nơi từng gắn bó nhiều năm trong chiến tranh và cả thời kỳ đầu xây dựng, nhưng không được bởi nhiều nguyên do. “Hộ khẩu tôi nhập cuộc với tình yêu/ Thành phố hỡi! Đừng gọi tôi là tạm trú”.
Ngô Thảo cũng đã lưu lại tư liệu bài thơ Bởi vì em của Thu Bồn mà ông viết sau một đêm mất ngủ, đề tặng Minh Châu – nữ nghệ sĩ nhiếp ảnh ở Huế, nay định cư ở Pháp – mà sau này khi in lấy tựa đề là Tạm biệt Huế. Bài thơ chép tay này do chính nghệ sĩ Minh Châu trao cho Ngô Thảo trong một chuyến chị về Việt Nam. So sánh hai văn bản, chúng ta thấy bài Bởi vì em có nhiều câu khác với bài Tạm biệt Huế lưu hành sau này.

Nhà văn Ngô Thảo
Là nhà phê bình văn học chuyên viết về những nhà văn quân đội, ngòi bút của Ngô Thảo thể hiện sự dày công thu thập tư liệu, quan sát, ghi chép một cách cẩn trọng, nâng niu. Văn phong những bài phê bình, tiểu luận của ông trong Bốn nhà văn nhà số 4 được thể hiện trong sáng, gần gũi đời thường.
Thông thường trong thể loại phê bình văn học người ta viết từ ngoài viết vào, tức là đọc tác phẩm của nhà văn rồi đánh giá, nhận xét; còn Ngô Thảo thì viết từ trong ra, tức là ông viết về các nhà văn từ cách nhìn bên trong, quan sát cuộc sống đời thường của nhà văn, quá trình lao động nghệ thuật, thai nghén tác phẩm, từ đó mới hình thành chân dung của từng nhân vật. Trường hợp khi ông viết về nhà thơ Thu Bồn cũng như thế.
Có cảm giác thời ấy giữa nhà phê bình văn học với nhà văn không có giới hạn; họ sống với nhau như những người lính, ngay thẳng, chân tình, sát cánh bên nhau, yêu thương và tràn đầy sự cảm thông.
MINH TỨ
Báo Đà Nẵng













