Chào mừng ngày giải phóng miền Nam 30-4: Trào vui nước mắt rưng rưng

1684

Lê Xuân

(Vanchuongphuongnam.vn) – Trưa ngày 30 – 4 – 1975, khi những chiếc xe tăng của quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập, cả dân tộc hát vang khúc ca khải hoàn thống nhất đất nước. Từ địa đầu Móng Cái đến đất Mũi Cà Mau, đất nước ta đã liền một giải, non sông thu về một mối. Không có một bút pháp nào, giai điệu nào, sắc màu nào có thể diễn tả hết được niềm vui bất tận của dân tộc ta trong ngày toàn thắng.

 

Hầu như tất cả các nhà thơ ở mọi miền Tổ quốc đều có thơ bày tỏ niềm sung sướng, tự hào đến trào nước mắt. Nhà thơ Tố Hữu, “con chim đầu đàn của thơ ca cách mạng Việt Nam” đã viết:

Ôi, nỗi mừng dâng mọi nỗi mừng
Trào vui nước mắt cứ rưng rưng
Cả Việt Nam tiến công, cả miền Nam nổi dậy
Dồn dập tim ta trăm trận thắng bừng bừng.
(Toàn thắng về ta)

Niềm vui của ngày hội non sông quá lớn. Giữa trưa ngày 30 – 4 lịch sử, đi giữa dòng người và rừng cờ hoa mà ta cứ ngỡ như đi trong mơ. Nước mắt của những đứa con xa giành cho ngày độc lập:

Tôi không khóc nhưng vẫn trào nước mắt
Con đã về đây với mẹ Quê hương.
(Thu Bồn)

Nhà thơ Bằng Việt, trong đêm 30 – 4 như trẻ lại thời thơ ấu, tung tăng khóc cười giữa phố xá đông vui:

Đi giữa phố, khóc cười như trẻ nhỏ…
Cái giây phút một đời người mới có
Thật đây rồi, vẫn cứ nghĩ như mơ.
(Đêm 30- 4- 1975)

Đây cũng là dịp để thơ đồng hành cùng dân tộc ở thời khắc lịch sử trọng đại. Từ các nhà thơ đàn anh như: Tố Hữu, Chế Lan Viên, Tú Mỡ, Khương Hữu Dụng, Giang Nam, Hưởng Triều, Nguyễn Bá, Lê Chí đến các nhà thơ trẻ như: Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Khuất Quang Thụy, Nguyễn Hoa, Trần Nhương, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Trần Đăng Khoa, Cẩm Thơ, Chu Hồng Quý, Đinh Thị Thu Vân, Trương Nam Hương, Phạm Đình Ân… và nhiều tác giả văn xuôi cũng sáng tác thơ mừng ngày giải phóng. Bởi vì chỉ có thơ (và nhạc) mới kịp ghi lại những cảm xúc thăng hoa lóe sáng nhất của thế giới tâm hồn. Đọc lại thơ viết trong những ngày tràn ngập niềm sung sướng ấy lòng ta cứ lâng lâng như muốn bay lên cùng đất nước trọn niềm vui. Cảm ơn các nhà thơ đã nói hộ tấm lòng của muôn triệu con tim dân tộc.

Chế Lan Viên, tác giả của những bài thơ đánh giặc, là một trong những nhà thơ có thơ sớm về ngày đại thắng. Đó là bài “Ngày vĩ đại” dài 188 câu, viết trong 3 ngày sau giải phóng, in trên báo Văn nghệ (số 19 ngày 10 – 5 – 1975). Và ít ngày sau (19 – 5 – 1975), nhà thơ viết tiếp 306 câu “Thơ bổ sung”, hoàn thành bản hợp xướng thơ khá hoành tráng với tựa đề “Ngày vĩ đại và Thơ bổ sung” mang âm hưởng anh hùng ca và triết luận sâu sắc:

Ngoặt một cái non sông sạch làu bóng giặc
Pắc Pó nhìn thấu suốt tận Cà Mau
Không một bóng quân thù nào che lấp mắt
Liền trời ta một tấm ở trên đầu…

Hơi thơ mạnh, sảng khoái tự hào và trào dâng cảm xúc: “Ta reo vui sao bỗng chốc khóc ròng/ Cái hữu hạn lòng ta òa lên vì gặp cái vô cùng/ Tỉnh thức vĩ đại mà cứ ngỡ cơn mơ vĩ đại.”

Nhà thơ Huy Cận trong bài “Hôm qua Huế, hôm nay Đà Nẵng” muốn “giang đôi cánh lửa” để theo kịp bước chân thần tốc của các chiến sĩ giải phóng quân bay tới khắp xóm làng miền Nam yêu thương:

Thơ ơi, ta giang đôi cánh lửa
Bay khắp miền Nam, khắp phố khắp thôn
Cùng nhân dân nổi dậy, mõ giục trống dồn
Cùng nhân dân giang hai cánh tay giành ôm đất nước.

Hưởng Triều – nhà thơ đã gắn bó với Sài Gòn từ thuở ấu thơ và trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đã cùng dân tộc hồ hởi, reo vang như muốn vỡ tung lồng ngực với điệp khúc “thắng rồi”:

Thế là trái đất ngừng quay
Trời nín thở. Biển ngất ngây, bàng hoàng.
Thắng rồi, thần thoại Việt Nam
Cả thời gian, cả không gian đổi màu.
Thắng rồi! Lịch sử xôn xao
Hành tinh thêm một tự hào mông mênh.
Thắng rồi! Ấp ủ chung riêng
Nhẹ lâng những cặp chim chuyền sáng nay.
(Nghĩ về ngày đại thắng của một thành phố)

Có được chiến thắng “trời long đất lở” ấy, dân tộc ta đã phải đổi biết bao xương máu:

Vì độc lập tự do đã trở thành máu thịt
Vì những câu chuyện ngày xưa mà em yêu thích
Vì hạnh phúc mỗi người, vì tất cả màu xanh.
(Với Sài Gòn toàn thắng)

Nhà Thơ Nguyễn Đình Bổn thấy mỗi con đường, mỗi hàng cây ở thành phố Cần Thơ như lãng mạn hơn, xôn xao hơn trong ngày đại thắng:

Đẹp nhất là thành phố tháng tư
Những hàng phượng làm cháy bừng đại lộ
Cần Thơ mưa xanh, Cần Thơ nắng đỏ
Ôi xôn xao phố thị đồng bằng.
(Lãng mạn tháng tư)

Nhà thơ Bùi Văn Bồng lại đằm sâu một suy tưởng:

Mẹ già tóc bạc dường xanh lại
Đàn chim kết nhạc rộn tầng không
(Mở hội non sông).

Trong ngày hội non sông đoàn tụ, ai cũng cảm thấy “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng” (Phạm Tuyên). Bác nhớ tới miền Nam như “nỗi nhớ nhà”. Lúc nào Người cũng dành tình cảm lớn cho miền Nam “đi trước về sau”. Bác nói “Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi. Một ngày miền Nam chưa được giải phóng là tôi ăn không ngon, ngủ không yên”. Tâm nguyện cháy bỏng của Người trước lúc “đi xa” là: “Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn”. Nhà thơ Chế Lan Viên đã tưởng tượng Bác đang đi giữa đoàn quân, đi giữa cháu con, hòa vào niềm vui lớn:

Da Bác đỏ hồng, tóc Bác bạc phơ
Kìa Bác đang xuống nhà sàn từng bước gấp
Hoa sen trắng, hoa sen hồng nở bừng theo mỗi bước
Bác đi giữa cháu con, sông núi đang chờ.
(1975 – năm vĩ đại, ngày vĩ đại)

Cùng với ý tưởng đó, nhà thơ Tố Hữu bật lên tiếng kêu “Bác Hồ ơi!” giữa trưa Sài Gòn nắng đẹp:

Ôi, buổi trưa nay, tuyệt trần nắng đẹp
Bác Hồ ơi! Toàn thắng về ta.
Chúng con đến xanh ngời ánh thép
Thành phố tên Người lộng lẫy cờ hoa.

Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn trong bài “Chân dung người chiến thắng” đã xúc động trào nước mắt khi nghĩ về Người:

Bác đã sống vì hôm nay hạnh phúc
Bác tha thứ, Bác ơi, nếu chúng con đã khóc
Khi nhớ về Người với năm tháng gian truân
Lúc hai miền đã đến giữa vinh quang.

Nhà thơ Sóng Hồng (cố Tổng Bí thư Trường Chinh) khi nhìn thấy “Mặt trời lên quét sạch bóng xâm lăng” đã bồi hồi nhớ lại những mất mát, đau thương của quân dân, và hình bóng Bác luôn nặng trĩu bên lòng:

Mùa thắng đã đến cho trái chín
Riêng canh cánh bên lòng, mơ tưởng đến
Bác Hồ, người thuyền trưởng thắng phong ba
Ngày hội tưng bừng, Bác vẫn ở bên ta.
(Sài Gòn giải phóng – 5/ 1975)

Trong bài “Cảm ơn Sài Gòn” viết ngày 30 – 4 – 1975, Nguyễn Bá – nhà thơ của miền Tây Nam Bộ, đã nói hộ lòng dân miền Nam làm theo lời Bác:

Ta vào Sài Gòn… theo lời Di chúc
Vào nội ô sáng rực tên Người
Sài Gòn nhìn ta bằng đôi mắt
Ba mươi năm trông ngóng Sài Gòn ơi!

Còn nhà thơ Hữu Thỉnh với bữa cơm chiều đầu tiên trong dinh Độc Lập, không nỡ gắp, không nỡ ăn mà vẫn cảm thấy no. Bởi anh đang ngất ngây trước những suy tưởng, những xúc cảm vì niềm vui quá lớn:

Kìa gắp đi anh, ai nấy giục
Có gắp chi đâu mãi ngắm trời
Tự do xanh quá, mênh mông quá
Vượt mấy ngàn bom mới tới nơi.

Ta no cười nói, say đôi mắt
Bát canh ngày hẹn cũng mênh mông.
(Bữa cơm chiều trong dinh Độc Lập)

Thanh Thảo – người con của Quãng Ngãi, sau 5 năm mới trở lại Hà Nội, trong “Đêm pháo hoa” mừng chiến thắng, đã thủ thỉ với người em:

Anh nói với em… cái đêm pháo hoa ấy
Như lần đầu anh hiểu người Hà Nội
Sau năm năm xa cách trở về
Mấy vạn người xem bỗng òa một nụ cười.

Đó là những ngày “chưa có bao giờ đẹp như hôm nay”. Mỗi chúng ta lại nhớ đến các anh giải phóng “bước dài như gió lay thành chuyển non” (Tố Hữu). Những cánh quân từ bốn phía tiến vào Sài Gòn đều có chung một “tín hiệu” là miếng vải đỏ cài bên ngực trái. Ký hiệu đỏ là mệnh lênh, là niềm tin, và cũng là “trái tim” để nhận ra nhau trong bom rơi đạn nổ. Nhân dân mừng reo, tự hào vì các anh:

Khi những binh đoàn tràn vào thành phố
Nhân dân trương cờ – tung gió
Ngàn vạn cánh tay khua nắng – vẫy chào.
(Ký hiệu đỏ)

Có anh đã ngã xuống khi chỉ còn ít phút nữa là kết thúc chiến dịch. Nhà thơ Lê Văn Vọng kịp “ký họa” lại bằng thơ hình ảnh “Người chiến sĩ trong trận đánh cuối cùng” thật xúc động:

Anh ngã xuống phút cuối cùng chiến dịch
Chỉ một tầm tay thôi là chiến tranh kết thúc
Anh là người cuối cùng nhận về mình cái chết
Để ngày vui bạn bè đủ mặt.

Ở bài: “Trên đường phố Sài Gòn”, nhà thơ nhận ra người em gái giao liên năm nào giữa rừng người và cờ hoa vẫy gọi:

Vẫn nguyên vành mũ lá sen
Vẫn đôi dép đúc vốn quen đường rừng
Vẫn quân phục cũ nửa chừng
Dáng em không lẫn giữa rừng người chen.

Sau những náo nhiệt, hoan ca, là những phút lặng im “vô thanh thắng hữu thanh”. Bầu trời Sài Gòn như cao rộng hơn, hiện ra với mây trắng, hàng me xanh, và những lá cờ trên các ô cửa sổ, nhà thơ Ngô Thế Oanh lặng lẽ nhớ về những đồng đội của mình:

Quân phục đẫm mồ hôi bụi đất
Chiếc bi-đông chuyền tay cứu khát
Những vòm sao cao vút trên đầu
Cụm mây trắng tinh di động về đâu.
Đồng đội của tôi, đồng đội của tôi
Nói gì được nữa đây trong buổi mai toàn thắng.
(Khoảng lặng yên tháng tư)

Lắng lại sau mấy năm giải phóng, có “độ lùi” thời gian, nhà thơ Đinh Thị Thu Vân viết bài “Nếu không có ngày ba mươi tháng tư” với những giả định thành thật và đáng yêu:

Nếu không có ngày ba mươi tháng tư
Em giờ vẫn như thuở nào, sợ tay mình lấm đất
Sẽ không biết tự khuyên mình những lời khuyên nghiêm khắc
Không một lần dám sống hy sinh…

Bài thơ này chị làm đúng vào ngày 30 – 4 – 1981, nghĩa là sau 6 năm giải phóng. Chị xem tháng 4 là nhân chứng lịch sử cho sự đổi đời kỳ diệu của chị cũng như của bao người mà không thể có gì đền ơn được:

Em đổi những bé mọn tâm hồn lấy lắm ngọt êm
Lòng vẫn nghĩ: Tháng tư làm nhân chứng
Ôi nhân chứng bao dung, nhân chứng vô cùng người lớn
Làm thế nào em có thể đền ơn
Tháng tư ơi, xinh đẹp mãi tâm hồn.

Đây cũng là lời nguyện ước của bao lớp trẻ miền Nam biết ơn cách mạng, biết ơn cuộc sống sau ba mươi năm khói lửa chiến tranh chống Mỹ ác liệt. Nếu không có ngày 30- 4, cũng có nghĩa là chưa có chiến thắng, thì nói như Chế Lan Viên: “dân tộc sẽ ra sao? ngọn cờ sẽ ra sao?” và “cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ”. Chúng ta càng sáng rõ chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!” mà Bác đã chỉ ra.

Đọc lại thơ viết trong những ngày rực lửa của tháng Tư lịch sử, ta vẫn còn cảm giác bàng hoàng, sung sướng đến rơi lệ. Mỗi vần thơ như cứ bồng bềnh ẩn hiện trong ký ức ta. Các nhà thơ – chiến sĩ, trưởng thành trong chiến tranh và thơ của họ là nguồn sữa dồi dào nuôi dưỡng các nhà thơ trẻ thế hệ 7x, 8x, 9x – sinh ra và lớn lên sau ngày 30 – 4 lịch sử. Lửa của những vần thơ chiến thắng ấy vẫn mãi chói ngời như một trời phượng đỏ./.