Dấu ấn văn hóa ở người nghệ sĩ

Loading

(Vanchuongphuongnam.vn) – Như vậy nói  đến Văn hóa, ta có thể quan niệm đó là phạm trù cao nhất vế vật chất và tinh thần bao gồm cả nhiều địa hạt hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc trong đó trước hết phải nói đến Văn học Nghệ thuật (Văn chương, Nghệ thuật: Thơ, Văn, Hội họa, Thư pháp, Kiến trúc, Âm  nhạc, Sân khấu, Cải lương, Điện ảnh…), Chính trị, Kinh tế, Xã hội, Thương mại,…

Tác phẩm “Nghệ thuật Ca trù – Di sản Văn hóa phi vật thể” – tác giả Nguyễn Hoàng Dương.

I. Mở đầu

Quan niệm về văn hóa, người phương Tây nói: “ Tất cả mất hết, chỉ còn lại văn hóa ” (Tout  s‘oublie, seule la culture reste). Câu nói ngừơi xưa nhấn mạnh tầm quan trọng tối ưu của văn hóa thuộc phạm trù thượng tầng kiến trúc vốn giữ vai trò trên và trước tất cả lĩnh vực phi vật thể trong sinh hoạt xã hội loài người. Do vậy, văn hóa có thể xem là địa hạt tinh thần lẫn vật chất bao gồm cả chính trị, giáo dục, kinh tế, thương mại văn học nghệ thuật – những hoạt động từ bàn tay và khối óc do con người tác động, hình thành nên sản phẩm vật chất tinh thần của sinh vật mà trước tiên là con người, vì con người là chủ thể ưu việt quan trọng chủ chốt trong thế giới sinh vật biết tư duy và hoạt động có ý thức. Đặc biệt là ở nghệ sĩ, những người họat động chuyên nghiệp với niềm đam mê mãnh liệt một trong những bộ môn nghệ thuật, được coi là lĩnh vực kiến thức đòi hỏi người theo đuổi nó phải có năng khiếu và đam mê. Nhưng dấu ấn văn hóa cũng hiển thị theo một sắc thái riêng ở mỗi người nghệ sĩ nói chung. Cụ thể trước hết là dấu ấn văn hóa thể hiện ở người nghệ sĩ Việt Nam chân chính đương đại.

II. Nội dung

1. Thế nào là văn hóa và nghệ sĩ

1.1. Tiểu từ điển Larousse thì  ý nghĩa Văn hóa có tính khái quát:  “Văn hóa là chỉ chung kiến thức nhận được từ một hoặc nhiều lĩnh vực” (Ensemble des connaissances acquises dans un ou plusieurs domaines”

Theo Unesco (1994): “Văn hóa là một phức hệ tổng hợp các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên bản chất của một cộng đồng gia đình, làng xóm, vùng miền, quốc gia, xã hội…”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh – danh nhân văn hóa thế giới quan niệm: “Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và sự đòi hỏi của sự sinh tồn”.

1.2. Quan niệm về văn hóa

Có người coi “Văn hóa là hệ thống hữu cơ có giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương quan giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” (Trần Ngọc Thêm), 1999.

Như vậy nói  đến Văn hóa, ta có thể quan niệm đó là phạm trù cao nhất vế vật chất và tinh thần bao gồm cả nhiều địa hạt hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc trong đó trước hết phải nói đến Văn học Nghệ thuật (Văn chương, Nghệ thuật: Thơ, Văn, Hội họa, Thư pháp, Kiến trúc, Âm  nhạc, Sân khấu, Cải lương, Điện ảnh…), Chính trị, Kinh tế, Xã hội, Thương mại,…

1.3. Nghệ sĩ, người là ai?

Trong lĩnh vực văn hóa, mà người ta thường nói chung nguyên cụm từ Văn hóa Nghệ thuật như  Chủ tịch Hồ Chí Minh  đã nhấn mạnh vai trò cốt lõi của nó trong hoàn cảnh quốc phá gia vong: “Văn hóa Nghệ thuật là một mặt trận, anh chị em văn nghệ sĩ phải là những chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Do vậy, những người chính thức làm công tác chuyên môn trong các lĩnh vực sáng tác hoăc trình diễn như: văn học, thi ca, hội họa, âm nhạc, sân khấu,  cải lương, điện ảnh…. thường được gọi là nghệ sĩ: nghệ sĩ hội họa, thi sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, … Hay nói rõ hơn, khác với nghệ sĩ trình diễn trên sân khấu thường được gọi là diễn viên là: ca sĩ, nhạc sĩ, … những chuyện gia giàu kiến thức, am tường lý thuyết về nghệ thuật hay một bộ môn, một học thuật nào, … người ấy được gọi là gia, là sư hoặc là nhà:  luật gia, võ sư, nhà báo…

Ví dụ:  Nghệ sĩ Thanh Lam, ca sĩ Út Trà ôn, nhạc sĩ Văn Cao, họa sĩ Diệp Minh Châu, luật gia, kịch tác gia, kiến trúc sư…

Trong trường hợp, những người làm công tác Văn học Nghệ thuật ở vị trí làm nghệ tay trái không nhất thiết là nghề chuyên môn suốt đời để nuôi sống bản thân và gia đình thì được gọi là nghệ sĩ nghiệp dư.

2. Dấu ấn văn hóa hiển thị ở chân dung con người nghệ sĩ

2.1. Năng lực về nghệ thuật

Do vậy, một khi muốn được gọi là “nghệ sĩ” hay có người còn gọi là “nghệ nhân”, trước tiên là người đó tất yếu phải có chuyên môn đôi khi vì hoàn cảnh chỉ được kinh qua trải nghiệm tự học tập, tiếp thu kiến thức chuyên môn thực tiễn dân gian về văn học nghệ thuật từ bạn bè hoặc từ quần chúng xã hội. Và bản thân người ấy phải gắn bó sống chết với nghệ thuật trong suốt cả cuộc đời mà chưa được kinh qua thời gian học tập từ trường lớp chuyên môn về nghệ thuật. Ví dụ: trường Âm nhạc, trường Sân khấu, trường Mỹ thuật,… Ở đất nước ta, trước đây trong hoàn cảnh chiến tranh thời kháng chiến chống thực dân đế quốc, nhiều nghệ sĩ không được may mắn học tập xuất thân từ trường lớp nghệ thuật chính qui, nhưng vẫn được tôn vinh là nghệ sĩ chân chính. Ví dụ như: nhà thơ Nguyễn Bính, … ở miền Bắc;  các nghệ sĩ, Út Trà Ôn, Năm Phỉ, Bảy Nam ở Nam bộ….

2.2. Giàu tính nhân văn

Trong những đặc trưng tiêu biểu quan trọng nhất của ý nghĩa nội dung văn hóa phải kể trước hết là tính nhân văn (nhân: cái đẹp; văn: con người). Từ ngữ tích cực mang ý nghĩa khái quát này chỉ cái hay cái đẹp ở tài năng thực sự hữu ích cho xã hội, ở phong cách đạo đức đích thực xứng đáng được tôn vinh để làm tấm gương sáng cho đồng bào và cả cộng đồng nhân loại trên khắp cả năm châu. Nhân loại trên cả thế giới dần dần đi vào con đường hội nhập tương trợ nhau như huynh đệ giữa cộng đồng loài người giàu lòng từ thiện và luôn mong ước được sống an vui thịnh vượng trong không gian hòa bình thịnh vượng. Do vậy, người nghệ sĩ chân chính vốn dạt dào tình cảm, đam mê yêu cái đẹp tinh khôi cao quí trước hết phải là những con người thấm đẫm đức tính  nhân văn.

2.3. Với nghệ sĩ, ngoài năng lực, trên hết là nhân cách, đạo đức suốt đời phụng sự đồng bào, đất nước quê hương và nhân loại

Nước Việt Nam với nền văn hiến đã sản sinh và hiện hữu từ trên bốn nghìn  năm đã từng chịu thảm cảnh nô lệ, thống trị bởi chế độ phong kiến phương Bắc, bị thực dân Pháp đô hộ ngót 100  năm và hơn 1/4  thế kỷ nhân dân Việt Nam phải cam chịu cảnh đau thương vì bom đạn của đế quốc. Từ trong thử thách gian nan đau khổ tang tóc thê lương, nhân dân Việt Nam đã thể hiện những phẩm chất cao đẹp trong suốt quá trình từ thời lập quốc, khai quang mở cõi,..  Anh hùng gan góc chịu hy sinh đánh giặc giữ nước, nhân dân thuộc mọi tầng lớp đã rút ra được những bài học quí báu từ sự nghiệp chống ngoại bang xâm lược để bảo vệ quê hương. Ngoài kiến thức uyên bác, tích lũy từ trường học, tài năng bẩm sinh có được từ bẩm sinh hoặc di truyền họ tộc, văn nghệ sĩ còn đòi hỏi cần phải có nhân cách, đạo đức. Không những suốt đời phải có tinh thần phụng sự đồng bào và lòng thủy chung với đất nước quê hương.     

3. Chân dung người nghệ sĩ Việt Nam mang dấu ấn văn hóa Việt Nam

3.1. Với người nghệ sĩ Việt Nam chân chính phong cách đậm màu văn hóa

Với truyền thống  văn hóa cao đẹp hiện hữu ngay từ thuở vua Hùng dựng nước, dân tộc Việt không những đã sở hữu tinh thần đoàn kết, cần cù lao động xây dựng đất nước và phẩm chất dũng cảm đấu tranh chống kẻ thù của đồng bào, quyết hy sinh, đem xương máu của mình ra để bảo vệ tổ quốc. Tiếng hát, câu thơ, lời văn, họa phẩm… do nghệ sĩ sáng tác ngoài phong cách hình thức như sắc màu giai điệu ca từ … nội dung  tác phẩm  của nghệ sĩ cần phải hội đủ tính giáo dục động viên, …cho người thưởng ngoạn.

3.2. Đặc biệt trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh

Nghệ sĩ trong cơn quốc biến, đất nước bị xâm lược, trước hết, vì là người có tình cảm phong  phú, giàu cảm xúc cần ý thức được nhiệm vụ thiêng liêng của người công dân, nếu chưa tới lúc phải cầm súng ra trận, nơi hậu phương phải ra sức sáng tác những tác phẩm tốt nằm phục vụ cho sự nghiệp  đất tranh của dân tộc. Trong không gian văn học nghệ thuật thời kháng chiến chống xâm lược, nhiều văn nghệ sĩ đã lưu lại những dấu ấn văn hóa màu son vô cùng rạng rỡ đẹ đẹ vô bờ hiển thị trong tác phẩm  nội dung chứa chan tinh thần yêu nước. Nhà thơ Tố Hữu với Hoan hô chiến sĩ Diện Biên, Theo chân Bác,…Nguyễn Bính với Trận Cây Bàng, Lê Anh Xuân với  Dáng đứng Việt Nam, Trần Quang Long với những vần thơ thé trong  Thưa mẹ trái tim, các họa sĩ kháng chiến: Nguyễn Sáng với họa phẩm : Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ,  hoạ sĩ Diệp Minh Châu vẽ chân dung Chủ tịch Hồ Chi Minh bằng chính những giọt máu hồng nồng ấm chảy ra từ trái tim mình,….

4. Quan điểm về người nghệ sĩ Việt Nam chân chính mang dấu ấn văn hóa đích thực hiện nay

Kế thừa và phát huy phẩm chất truyền thống cao đẹp của người nghệ sĩ Việt Nam từ xưa trong cần cù lao động nghệ thuật, người nghệ sĩ Việt Nam chân chính hôm nay hội tụ được nhiều đức cao đẹp: lòng đam mê yêu nghệ thuật thể hiện rõ nét trong tác phẩm nghệ thuật mang tính sáng tạo mà không thiếu lòng yêu tổ quốc xã hội chủ nghĩa, và lòng tôn kính lãnh tụ. Đó là những dấu ấn son rạng rỡ không hề thiếu vắng hoặc phai nhạt trong cuộc đời và tác phẩm nghệ thuật của họ.

III. Kết luận

Tóm lại, ở thế kỷ XXI, người Việt Nam trong đó có những nghệ sĩ đang rất hạnh phúc  tự hào sống trong thời đại Hồ Chí Minh quang vinh. Việt Nam trong quá khứ, hôm nay và hứa hẹn cả đến mai sau là một đất nước anh hùng không chỉ hiện hữu trên vũ đài văn hóa thế giới với một quá trình lịch sử vàng son, và một dân tộc có truyền thống yêu nước. Việt Nam còn sở hữu một nền văn học nghệ thuật hiện đại tiên tiến, sáng tạo chan chứa tính  nhân văn. Trong hoàn cảnh đất nước hòa bình hoặc có chiến tranh, ngoài năng lực chuyên môn, trong hình tượng ngưởi nghệ sĩ Việt Nam chân chính dấu ấn văn hóa yêu nước thức thời trước tiên phải hiển thị rõ nét như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại kính yêu đã từng dạy ta: “Văn hóa văn nghệ là một mặt trận. Anh chị em văn nghệ sĩ là những chiến sĩ trên mặt trận ấy ”

Mùa Hội tụ Non sông. 2025

Nguyễn Thanh

THƯ MỤC THAM KHẢO

  1. Trần Văn Minh: Đặc điềm Văn học Việt Nam hiện đại (2024-2026 ) Giáo trình của Thầy giảng dạy cho HV. K.31 Văn học Việt Nam.
  2. Tự điển Văn học – Bộ mới – NXB Thế giới, 2006
  3. Le Petit Larousse Illustré – Edition Larousse, 2006
  4. GS Trần Hữu Tá: Nhìn lại một chặng đường văn học – (NXB T Hồ Chí Minh)
  5. Văn học so sánh. Lý luận và ứng dụng – Nguyễn Thị Hồng Hạnh- ctu.edu.vn
  6. Trần Hoài Anh: Lý luận – Phê bình Văn học Miền Nam – TIẾP NHẬN VÀ ỨNG DỤNG – Chuyên luận (NXB Hội Nhà Văn)
  7. Nguyễn Thanh: Đi tìm hương sắc văn chương (NXB Hội Nhà văn, tháng 4/ 2023)