Mai Thắng – Những cột mốc sống trên biển

769

13.6.2016-22:10

 Nhà giàn thế hệ đầu tiên mang phiên hiệu Phúc Tần (Ảnh: TL DK1)

 

>> Thể lệ cuộc thi

 

Cuộc thi phóng sự – ký sự

“Ấn tượng đất nước – con người Việt Nam”:

 

Những cột mốc sống trên biển

 

I. Hải trình đầu tiên

 

MAI THẮNG

 

NVTPHCM- Để bảo vệ Tổ quốc từ biển, những người lính “áo vằn cánh sóng” thuộc Tiểu đoàn DK1 Vùng 2 Hải quân đóng quân ngoài thềm lục địa phía Nam, đang ngày đêm gồng mình với thời tiết khắc nghiệt và thiếu thốn mọi bề. Chấp nhận gian khổ, sẵn sàng hy sinh, là sứ mệnh của người lính thời bình, được hơn 90 triệu người dân Việt gửi gắm niềm tin. Các anh chỉ trọn vẹn niềm vui khi những cột mốc chủ quyền mãi mãi vững thế đứng Việt Nam giữa ngàn khơi đất mẹ.

 

Cho đến bây giờ đã hơn 26 năm, kể từ cuộc hải trình đầu tiên đi dựng Nhà giàn DK1 mang tên Phúc Tần 3, song những ngày tháng gian khổ, sống với biển, vui buồn cùng biển không bao giờ quên trong ký ức của Trung tá Nguyễn Tiến Cường, vị thuyền trưởng trên con tàu vỏ gỗ ngày ấy.

 

Ăn cơm mắm, tắm nước biển

 

Để hiểu rõ về những ngày đầu tiên đi khảo sát dựng chân đế Nhà giàn DK1/3, tôi tìm gặp Trung tá Nguyễn Tiến Cường hiện đang giữ chức Trợ lý kế hoạch tổng hợp Phòng Chính trị Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân. Năm 1988, anh Cường mang quân hàm Thượng úy giữ chức thuyền trưởng tàu HQ – 668, con tàu mà anh và đồng đội đã vật lộn với sóng cuồng bão tố giữa biển khơi cách đây 27 năm. Câu chuyện về chuyến hải trình đầu tiên được Trung tá Cường hồi tưởng trong niềm xúc động: “33 năm trong đời quân ngũ, đó là lần đi biển gian nan nhất. Bây giờ nghĩ lại thấy quá mạo hiểm. Những ngày tháng ấy không bao giờ quên được”.

 

Sau khi có quyết định của Bộ Tư lệnh Hải quân về việc thăm dò, khảo sát để xúc tiến xây dựng nhà cao chân trên các bãi cạn san hô ở vùng biển thềm lục địa phía Nam thuộc Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo, chiều 6-11-1988, thuyền trưởng Nguyễn Tiến Cường cùng 15 thủy thủ vượt sóng ra khơi làm nhiệm vụ trên con tàu HQ – 668. Đây là con tàu vỏ gỗ nhỏ nhất của Hải đội 811 lúc bấy giờ. Hành trang của các thủy thủ là 2 cuộn dây thừng, 6 sào tre, gạo, dầu diesel, lương khô, nước ngọt đủ sinh sống trong một tháng. Ngày ấy, tàu HQ – 668 chưa có thiết bị định vị vệ tinh hiện đại như bây giờ, phương tiện dẫn đường duy nhất là chiếc la bàn từ của Liên Xô được cấp phát. Trước giờ bước chân xuống tàu, anh Cường tạm biệt vợ và con gái. Chị Thủy (vợ anh Cường) níu áo chồng hỏi: “Anh đi khi nào mới về?”. Nhìn sâu vào mắt vợ, Cường động viên: “Em yên tâm ở nhà chăm con. Thời gian không tính được, hoàn thành nhiệm vụ anh sẽ về”. Bế con gái trong lòng, anh Cường rưng rưng nước mắt hôn lên đôi má của con. “Lúc đó tâm trạng mình buồn lắm. Sau sự kiện Trường Sa 88, nói đến đi biển khác gì vào chiến trận. Biển xa, sóng gió, biết đâu mình bỏ mạng ngoài biển. Rồi vợ con sống ra sao?”, anh Cường nhớ lại.

 

Tiễn chồng trên cầu cảng Hải đội 811, chị Thủy bồng con khóc nghẹn khi nhìn con tàu xa dần trong sóng nước. Những người vợ, người mẹ, người em tiễn người thân ra đi trên con tàu chiều ấy đều nghẹn ngào rơi lệ. Mẹ cầu mong con sớm trở về; vợ chúc chồng hải lộ bình an; bạn gái trao cho người yêu cuốn sổ, cây bút để viết thư và hẹn ngày tái ngộ. Cuộc chia xa đầy nước mắt!

 

Ra đi trong mùa gió chướng cùng với gió mùa Đông Bắc tràn về, con tàu “lá tre” chồm lên, ngụp xuống trong sóng gió. Sau 3 ngày đêm hải trình liên tục, tàu HQ – 668 neo đậu tại bãi san hô ngầm Phúc Tần. Công việc đầu tiên là đo độ sâu và xác định vị trí đặt chân đế nhà giàn. “Ngày đó đo độ sâu như tìm kim đáy biển. Giữa đại dương bao la, biết chỗ nào nông – sâu mà lần. Tôi vừa đưa cây sào tre xuống liền bị sóng đánh gãy đôi cuốn đi. Không còn cách nào khác, chúng tôi phải dùng dây thừng thắt nút từng mét. Một đầu cột vào cục đá lớn thả xuống biển. Nước ngập đến đâu, đếm nút dây tính ra mét đến đó. Tuy không chuẩn xác tuyệt đối, nhưng khớp với tọa độ trên bản đồ. Sau khi xác định được tọa độ, anh em thả phao quả nhót đánh dấu và tổ chức canh giữ. Coi đó là cột mốc chủ quyền sẽ xây dựng ở tọa độ này”, Trung tá Cường kể lại.

 

Nhưng gian khổ ấy chưa phải là tận cùng. Kế hoạch đi biển chỉ một tháng, song do yêu cầu nhiệm vụ, tàu HQ – 668 tiếp tục ở lại khảo sát độ sâu ở các bãi cạn: Huyền Trân, Phúc Nguyên, Tư Chính, Quế Đường. Làm gì để bám trụ với biển khi lương thực, nước ngọt cạn dần? Kế hoạch “ăn cơm mắm, tắm nước biển” được vạch ra. Biển động, sóng lớn, toàn bộ khoang nước ngọt bị nhiễm mặn hòa lẫn gỉ sét. Để có nước nấu cơm, các chiến sĩ đã lấy áo lót của mình, căng lên mặt xô sắt làm tấm lọc, múc nước gỉ sét đổ lên. Nước lọc được dùng nấu cơm và uống. Cả tháng, các chiến sĩ không tắm, giặt; tóc người nào cũng “đổi màu” đỏ quạch, cứng như rễ tre; răng xỉn vàng vì cả tuần không chải. Những ngày biển động không nấu được cơm, bộ đội phải ăn lương khô trừ bữa. Có hôm “được” ăn cơm nhưng khi vừa bưng bát cơm đưa lên miệng liền bị sóng đánh hất tung, văng tung tóe trên mặt sàn tàu. Có ngày biển lặng như mặt gương, trên nắng chang chang, dưới hầm hập nóng, các thủy thủ ra mũi tàu ngồi “tắm” gió, người nọ kỳ lưng cho người kia. Chiến sĩ trẻ lấy thư người yêu ra đọc, người có vợ, con thì đem ảnh ra xem cho vơi nỗi nhớ. Họ truyền tay nhau điếu thuốc lá hiệu Sông Cầu. Trong phút giây lặng lẽ, chẳng ai nói ra, nhưng trong thâm tâm ai cũng ngóng về đất liền. Lúc đó cũng không có ti vi. 16 người ngồi quanh chiếc đài bán dẫn nghe tin tức ở đất liền. Nhưng biển sóng chập chờn, lúc nghe được lúc không…

 

Cuộc chiến sinh tử giữa đại dương

 

Trở về sau 31 năm lăn lộn cùng biển cả, Trung tá Trần Xuân Vọng vẫn nhớ như in ngày ông cùng bộ đội công binh Hải quân hạ đặt chân đế boong-tông Nhà giàn Phúc Tần 3 trên bãi cạn Phúc Tần. “Đó là cuộc chiến đấu sinh tử giữa lòng đại dương, chỉ khác là không có tiếng súng như thời chiến trận”, ông Vọng chia sẻ tại nhà riêng của ông ở phường 12 TP Vũng Tàu.

 

Năm 1988, ông Vọng đeo hàm trung tá, giữ chức chỉ huy biên đội gồm hai tàu HQ – 771 và HQ – 723 thuộc Hải đoàn 129 Hải quân, thực hiện nhiệm vụ hành quân khẩn cấp ra bãi cạn Phúc Tần dựng chân đế nhà giàn. Hải trình cùng biên đội tàu của Hải đoàn 129 có biên đội tàu của Lữ đoàn 171, gồm tàu HQ – 713, HQ – 668 do Trung tá Hoàng Kim Nông, Phó Lữ đoàn trưởng về chính trị chỉ huy. Sau khi cùng tàu kéo chuyên dụng của Bộ GTVT chở chân đế boong-tông cùng vật liệu sắt thép ra bãi cạn Phúc Tần, cuộc “chiến đấu đặc biệt” trong lòng đại dương của các thợ lặn bắt đầu. Công việc đầu tiên là tạo mặt bằng đáy san hô. 13 thợ lặn chuyên nghiệp của Xí nghiệp Vận tải biển và công tác lặn (thuộc Liên doanh Dầu khí Vietsovptro) mặc quần áo nhái, đeo bình ô xy lặn sâu dưới biển, dùng công cụ chuyên dùng san phẳng bãi san hô, rồi khoét một lỗ rộng bán kính 16m, đặt khối boong-tông vào đó. Khi khối boong-tông được bơm đầy xi măng đánh chìm xuống đáy, những thợ lặn vừa phải chống chọi với dòng nước chảy, vừa “lái” khối boong-tông vào đúng lỗ đã được đào sẵn.

 

Ông Nghiêm Văn Hùng, một thợ lặn kỳ cựu của Xí nghiệp vận tải biển và Công tác lặn có mặt từ ngày đầu tiên đặt chân đế Nhà giàn Phúc Tần 3, cho biết: “Để bảo đảm tiến độ công trình, chúng tôi làm bất kể ngày đêm. Hàn xì dưới đáy biển nên hiểm nguy rình rập, chỉ cần chập điện hoặc đứt ống dẫn khí là tử vong. Thời tiết luôn bất thường. Có khi trời đang trong xanh bỗng sấm chớp ầm ầm, sóng biển cuồn cuộn dâng lên. Chuyện đóng nhà giàn gian khổ lắm, nhưng nghĩ lại thấy sung sướng vì được cống hiến sức lực cho biển đảo”.

 

Cột mốc đầu tiên

 

Sau hơn 7 tháng chạy đua với sóng gió, ngày 10-6-1989, cột mốc chủ quyền đầu tiên mang phiên hiệu Phúc Tần 3 hoàn thành. Nhìn nhà giàn sừng sững trên sóng nước, những người lính công binh hải quân và thợ lặn vui sướng trào nước mắt. Họ nghĩ về đất liền, vợ, con, người thân gia đình đang chờ đón họ trở về.

 

Nhà giàn Phúc Tần được xây dựng theo mô hình boong-tông do Bộ GTVT thiết kế. Để giữ cho nhà giàn đứng thẳng, không bị lật, khối boong-tông đánh chìm dưới đáy san hô được kết nối với phần sàn ở và sàn công tác bằng 4 cọc bích siêu bền chịu lực. Song đây cũng chính là “hạn chế” của công trình. Do không tính kỹ đến độ dâng cao của thủy triều, nên mỗi lần biển động, sóng cấp 7 cấp 8, một phần ba phía dưới sàn ở của nhà giàn bị ngập trong nước. Nhà giàn cũng lắc lư theo sóng gió bởi khối boong-tông dịch chuyển theo dòng chảy của thủy triều. Tuy nhiên, như cựu binh Nguyễn Văn Nam, người chỉ huy đầu tiên có mặt tại Nhà giàn Phúc Tần 3, tâm sự: “Nhà giàn Phúc Tần 3 như một cuộc thử nghiệm, nhưng đó là cột mốc đầu tiên mang hình Tổ quốc trên thềm lục địa phía Nam, đánh dấu ngày đầu tiên cán bộ, chiến sĩ DK1 ra trấn giữ, bảo vệ”.

 

Sau Nhà giàn Phúc Tần 3, các nhà giàn khác cũng lần lượt được xây dựng ở các bãi cạn Tư Chính, Phúc Nguyên, Quế Đường, Huyền Trân, Ba Kè, Cà Mau. Mỗi nhà giàn là một cột mốc sống trên biển, làm điểm tựa cho ngư dân đánh bắt hải sản xa bờ.

Chiến sĩ nhà giàn vững vàng tay súng

 

II. Hoa thép giữa ngàn khơi

 

Mặc sóng gió đại dương, mặc khó khăn, gian khổ, những người lính Nhà giàn DK1 vẫn ngày đêm kiên cường trụ vững nơi đầu sóng ngọn gió. 26 năm qua, họ vẫn thầm lặng hy sinh tuổi thanh xuân và hạnh phúc riêng để mỗi nhà giàn mãi là thế đứng Việt Nam trên thềm lục địa.

 

Kíp trực đầu tiên

 

Nói đến thế hệ đầu tiên ra Nhà giàn DK1, phải nhắc đến thượng tá Nguyễn Văn Nam với 33 tuổi quân và 25 năm liên tục ở DK1. Sĩ quan Nam đi hầu hết các nhà giàn, nhưng những năm tháng đầu tiên sống trên Nhà giàn Phúc Tần 3 cùng 13 đồng đội thì không thể nào quên.

 

Tháng 7-1989, với quân hàm đại úy, anh Nam được điều về khung quản lý DK1 (thuộc Lữ đoàn 171) để nhận nhiệm vụ Lô trưởng Lô Phúc Tần 3 (tức DK1/3) và chỉ huy 13 cán bộ, chiến sĩ lên tàu ra Nhà giàn Phúc Tần 3. Đây là kíp trực đầu tiên. Sau 3 ngày đêm “ngụp lặn” trong sóng gió, tàu HQ – 727 đưa 14 cán bộ chiến sĩ đến bãi cạn Phúc Tần. Do tàu không có xuồng nên tất cả phải nhảy xuống biển bơi vào nhà giàn. Để trấn an tinh thần bộ đội, đại úy Nam buộc một đầu dây thừng vào bụng rồi nhảy xuống biển bơi vào nhà giàn trước. Sau đó, tàu và nhà giàn kết nối bằng một sợi dây ấy, 13 chiến sĩ còn lại nhảy xuống biển lần bám theo sợi dây bơi vào.

 

Sau khi lên nhà giàn an toàn, cuộc mưu sinh trên sóng bắt đầu. Thời điểm ấy bộ đội chưa có khái niệm trồng rau xanh, câu cá biển là gì. Cơm nấu bằng bếp dầu mazut, thức ăn là thịt hộp đem ra từ đất liền. Cả nhà giàn chỉ có hai bồn dự trữ chừng hơn 10m3 nước ngọt. Không ti-vi, không báo chí, phương tiện nắm thông tin duy nhất là chiếc đài Véc – 206 của Liên Xô, nhưng lúc bắt được sóng, lúc không. Tối lại thắp đèn dầu viết thư. Nỗi nhớ đất liền canh cánh trong lòng và trong phút giây ấy, anh em ngồi trên lan can nhà giàn hướng mắt về phía chân trời. Tiếng đàn ghi ta cũng bập bùng để khuây nỗi nhớ đất liền da diết trong tâm can.

 

Dưới cái nắng và gió gào thét rát mặt giữa đại dương, 14 cán bộ chiến sĩ vừa gồng mình đối mặt với thời tiết khắc nghiệt, vừa trực chiến không cho tàu lạ xâm phạm vùng biển được giao quản lý. “Gian khổ về vật chất như thiếu nước ngọt, rau xanh đã là cùng cực, nhưng khổ hơn là nỗi nhớ đất liền luôn cào xé trong lòng. Lúc đó chưa có điện thoại như bây giờ, nên mọi thông tin về đất liền phải viết thư. Lúc đó cũng chưa có quy định 2 tháng tàu thay trực một lần nên mọi chuyện đều mịt mờ. Vợ ốm, con đau, bố mẹ qua đời cũng không biết liền được. Không đủ nước tắm, suốt ngày đêm anh em chỉ mặc mỗi quần lót nên ai cũng đen nhẻm”, thượng tá Nam nhớ lại.

 

Vững vàng tay súng

 

Từ tháng 7-2009, lần đầu kỷ niệm 20 năm thành lập Cụm kinh tế – khoa học – dịch vụ (gọi tắt DK1), các nhà giàn mới được đông đảo người dân biết đến.

 

Sau khi được tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, cán bộ – chiến sĩ ở các nhà giàn đã nhận được nhiều tình cảm, vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân trên mọi miền đất nước. Trong đó, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân TPHCM là đơn vị đầu tiên quan tâm đặc biệt đến đời sống ngoài biển và hậu phương của các chiến sĩ. Hàng trăm tấn hàng, quà gửi tới các nhà giàn, hàng ngàn lá thư của các em học sinh, người dân, nghệ sĩ thành phố mang tên Bác gửi tới nhà giàn.

 

Nếu từ năm 2009 về trước, các nhà giàn không có điện thắp sáng thì nay 100% nhà giàn đã có ánh sáng từ pin năng lượng mặt trời. Tối đến anh em quây quần bên nhau xem ti-vi, nắm thông tin từ đất liền, gọi điện về cho người thân, thăm hỏi gia đình, vợ con… Chỉ giản dị vậy thôi, nhưng đối với họ là niềm hạnh phúc.

 

Mặc dù hiện nay đời sống của cán bộ, chiến sĩ trên 15 nhà giàn DK1 đã được cải thiện nhiều so với trước, nhưng không phải đã hết khó khăn, gian khổ. Những cán bộ, chiến sĩ khoác “áo vằn cánh sóng” ở nhà giàn thế hệ đầu tiên, đến thế hệ nhà giàn thứ hai vẫn hàng ngày phải chia nhau từng ca nước ngọt. Tắm “theo kế hoạch” tuần 2 lần, mỗi lần một xô nước nhỏ. Nước vo gạo dùng để rửa mặt; nước rửa cá, rửa rau dồn lại tưới rau. Gọi là trồng được rau xanh, nhưng cũng chỉ đủ nấu canh loãng ngày hai bữa để có chất xơ.

 

Đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, thời gian ở nhà giàn từ 8 tháng đến 1 năm mới được vào đất liền, còn chiến sĩ công tác hết thời gian tại ngũ. Hai tháng tàu từ đất liền ra tiếp tế lương thực thực phẩm một lần, đó là lúc những chiến sĩ trẻ ấm lòng nhất, vì nhận được quà gia đình và “ngửi” thấy mùi đất liền. Một năm được xem đoàn văn công ra biểu diễn một lần vào tháng 5 biển lặng, nhưng cũng đôi khi sóng to gió lớn, văn công không ra được, bộ đội nhà giàn ngồi quanh máy thông tin để được nghe hát qua bộ đàm.

 

Những gian khổ ấy, giờ đây đối với chiến sĩ DK1 đã trở thành bình thường, song cũng có những khó khăn không “đong đếm” được. Thượng úy Phạm Thành An có con gái đầu bị rò tủy bẩm sinh, mẹ ruột bị bại liệt nằm một chỗ suốt 13 năm. Mỗi lần gọi điện về nghe con gái khóc, anh chỉ biết nén lòng hứa với con biển lặng bố sẽ về. Ngày cầm quyết định ra nhà giàn, cũng là ngày con trai của thiếu tá Nguyễn Văn Tiên lên bàn mổ tim. Thương con, nhớ vợ nhưng anh vẫn nén lòng lên tàu đi làm nhiệm vụ, để rồi sau một năm chia xa, chen lẫn niềm vui đong đầy là những giọt nước mắt của ngày gặp lại. Để lại người vợ trẻ sau 2 tuần đám cưới, thiếu tá Lê Xuân Nam đi nhà giàn với bao niềm khắc khoải, và rồi sau 27 tháng quay về đất liền, con không nhận mặt cha. Anh Nam phải xưng “cậu với tớ” và “xin làm quen” dần với con gái bằng cách “độc” như vậy. Cơn bão cuồng phong ập đến lúc nửa đêm, sóng to gió lớn khiến trung úy Nguyễn Việt Dũng ở Nhà giàn DK1/11 không xuống được tàu để trở về đất liền làm đám cưới. Ở Thái Bình, đám cưới vẫn diễn ra nhưng chỉ có cô dâu. Một năm sau, hạnh phúc của họ mới ngập tràn trong vòng tay chờ đợi. Nước mắt hạnh phúc có cả mất mát đau thương.

 

Điểm tựa

 

Không thể không kể ra đây những vợ lính nhà giàn – những người đã âm thầm chịu đựng nỗi cô đơn, gánh vác gia đình, nuôi dạy con cái trong suốt thời gian các “phu quân” của họ trấn giữ ngoài khơi. Nếu không có họ, chắc hẳn một điều, những người lính DK1 không thể yên tâm công tác canh trời, bám biển.

 

Chị Nguyễn Thị Minh, vợ của thiếu tá Lê Hữu Toàn được biết đến như tấm gương vượt khó. Đám cưới chưa đầy tháng thì anh Toàn đi nhà giàn. Ngày chia tay chồng cũng là ngày chị Minh báo tin vui với chồng chị đã có thai. Trên cầu cảng Hải đội 812, với cặp mắt đỏ hoe, chị Minh chúc chồng lên đường thuận buồm xuôi gió. Anh Toàn sờ bụng vợ bảo:  “Nếu con trai đặt tên là Thuận em nhé”. Trở lại đất liền sau 25 tháng làm bạn với nắng gió mặn mòi, cũng là ngày con anh tròn một tuổi. Đêm đầu tiên sau 752 ngày xa cách, dụi đầu vào vai chồng, chị Minh khóc vì quá thương anh. Chị hỏi chồng, sao lại đặt tên con Thuận. Anh Toàn bảo, vì ngày đi biển, em chúc anh đi thuận buồm xuôi gió, nên anh muốn đặt tên con là Thuận cho việc gì cũng thuận lợi, êm xuôi.

 

Chị Minh kể, có lần con trai Lê Hồng Thuận đi chơi bên hàng xóm về hỏi chị: “Mẹ ơi, sao nhà mình không có bố?”. Ôm con vào lòng, nuốt giọt nước mắt vào trong, chị nói: “Có chứ. Bố con đi xa, xa lắm. Rồi bố sẽ về”. Chị lấy ảnh cưới ra chỉ cho con xem: “Bố con đấy. Khi bố về sẽ đem cá kìm khô cho hai mẹ con mình thưởng thức”. Cháu Thuận lại hỏi: “Cá kìm khô là gì hở mẹ?”. Lúc đó chị Minh đã bật khóc ôm con trong lòng mà thao thức suốt đêm. “Tuy thiệt thòi nhưng vợ lính phải chấp nhận hy sinh. Anh ấy đi DK1, mình ở nhà cũng phải cố gắng hoàn thành nhiệm vụ để anh yên tâm bám biển”, chị Minh nói. Hiện chị Minh đang giữ chức Tiểu đội trưởng Tiểu đội CHX Trung đội Thông tin (thuộc Phòng Tham mưu Lữ đoàn 171 Vùng 2 Hải quân), còn anh Toàn vẫn công tác ở nhà giàn.

 

Khó khăn, gian khổ, mất mát, hy sinh là thế, nhưng những người lính Nhà giàn DK1 vẫn ngày đêm vững vàng tay súng canh biển trời Tổ quốc. Ở giữa ngàn khơi sóng gió ấy, các anh là những “hoa thép” mang trong mình sứ mệnh của người lính thời bình và tình yêu cao hơn tất cả là dành cho Tổ quốc. Máu của những người đã ngã, mồ hôi của những người đang sống trên những nhà giàn đã hòa vào sóng biển mặn mòi.

 

SGGP

 

 >> XEM TIẾP BÚT KÝ – TẠP VĂN TÁC GIẢ KHÁC…