Nét đẹp một tập thơ với nhiều địa danh khó nhớ

30

                             Đỗ Nguyên Thương

(Vanchuongphuongnam.vn) – Không thể phủ nhận đất nước Việt Nam ta rất nhiều địa danh đẹp, có vẻ đẹp hiền hòa của sông nước, có vẻ đẹp kỳ vĩ của núi non và rất nhiều vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ của rừng của núi đã đi vào thơ ca, vào nhạc phẩm đẹp như huyền thoại.

Từ trái sang phải: Nhà thơ Lan Thanh, tác giả và nhà thơ Ngô Kim Đỉnh

Không thể phủ nhận làm thơ mà đưa được địa danh vào là khó, và khó hơn nữa là địa danh được sắp xếp để thơ có vần điệu và hình trong thơ như được tạc vào tâm trí người đọc. Nhà thơ Lan Thanh đã làm được điều đó qua tập thơ  “Giấc đại ngàn”

Vâng, mở đầu “Giấc đại ngàn” là bài thơ Lên Ô Quy Hồ tự, Ô Quy Hồ là một địa danh thuộc thị xã Sa Pa (Lào Cai). Lên được đó là qua bao đèo dốc, là vượt núi, vượt đèo. Bởi vậy, ngay tức khắc tác giả nhớ về nhà văn Nguyễn Tuân và nhà văn Nguyễn Thành Long, với các tác phẩm đã nổi danh một thời trước đó:

Cụ Nguyễn Tuân từng viết “Ô Quy Hồ”

Nguyễn Thành Long viết “Lặng lẽ Sa Pa”

ngày ấy họ lên đây bằng cách nào?

điệp trùng núi, điệp trùng văn thuở trước!

Ba câu thơ mở đầu tựa như viết ký, là tự sự thuần túy, cái cách đặt câu hỏi giản dị “ngày ấy họ lên đây bằng cách nào? khiến cho bài thơ mang đậm chất dân dã. Nếu chỉ 3 câu đó chưa thể thành thơ, chưa có chất thơ. Đến câu cuối của khổ thơ thứ nhất thì chất thơ mới hiện diện “điệp trùng núi, điệp trùng văn thuở trước!”. Vâng, đã từ rất lâu dân gian truyền tụng, những ai ở gần núi hay “phát” về văn. Và có thể hiểu điệp trùng núi thì có điệp trùng văn, cũng có thể hiểu theo cách khác, điệp trùng núi tạo hình đẹp như những áng văn.

Các bậc văn nhân thiết tha cái đẹp

trùng trùng thang mây, dốc mấy cũng trèo

những ngọn đèo hiểm trở, vòng vèo

đục đẽo, tạo hình…tạc vào thế kỷ

Quả thật khi nhìn cảnh bằng tâm thế tươi vui, yêu đời thì núi non hiểm trở không là trở ngại, không làm nên nỗi sợ mà là làm nên cái đẹp, cái đẹp “tạc vào thế kỷ”.

Cũng ánh mắt đó, cũng tình cảm ấm áp đó, tác giả thấy tại Ô Quy Hồ Tự, ngôi đền có ban thờ trang nghiêm, có Phật Bà che chắn gió mây cho con người qua lại được bình an, cũng tại nơi linh thiêng ấy, xuất hiện phút trải lòng chân thật, không hề gò ép, khiên cưỡng

Lên Ô Quy Hồ, chỉ một mình tôi

không anh, cả vòm xanh trống vắng

là chỉ thoáng chạnh lòng gió thoảng

quanh tôi còn có bao người…

Một mình lên Ô Quy Hồ thấy đẹp đẽ, thấy thiêng liêng và chính giây phút ấy cái cảm giác “không anh, cả vòm xanh trống vắng” xâm chiếm cõi lòng. Âu đó cũng là quy luật, không những dễ được đồng cảm, lại còn được trân trọng. Tuy nhiên, có cảm giác đó chỉ là khoảnh khắc:

là chỉ thoáng chạnh lòng gió thoảng

quanh tôi còn có bao người…

Bao nhiêu người xung quanh là bấy nhiêu lý trí, lý trí khiến nhà thơ bừng tỉnh, bừng tỉnh để quên đi phút giây sống cho riêng mình và nhanh chóng quay về thực tại, hòa nhập vào cuộc sống hiện diện, kề bên.

Tiếp đó là bài thơ về địa danh thuộc đất Hà Giang! Nếu chỉ là nhắc tên Hà Giang thì không khó bởi hai thanh bằng âm điệu xuôi tai! Nhà thơ không nhắc hai tiếng Hà Giang mà nhắc Mã Pì Lèng. Mã Pì Lèng tên địa danh gồm 3 âm tiết, không dễ thuộc, dễ nhớ, thật sự khó gieo vần nếu như tác giả không gửi vào đó những tình cảm nồng ấm, chân tình, tha thiết, yêu thương:

Đường Hạnh Phúc nối Hà Giang, Đồng Văn, Mèo Vạc

qua Mã Pì Lèng núi cõng mây thung thăng

mười một tháng công nhân treo người lưng chừng dốc

như đàn dơi

đánh vật với đèo.

đèo thua sức người, đá thua chân đất!

lưng núi kia ngả xuống làm đường.

Khổ thơ cho thấy cảnh hùng vĩ đồng thời thấy con người gan góc, dũng cảm, có sức mạnh bạt núi, san đèo.

Thi sỹ  Lan Thanh đi đâu cũng có thơ – như có tình tứ đã từ rất lâu với người, với cảnh; điều đó cho hay tại sao các Hội Văn học nghệ thuật thường tổ chức cho các văn nghệ sỹ đi thực tế! Đi bao nhiêu ki lô mét không quan trọng bằng đi đến đâu ghi lại dấu ấn gì? ghi dấu ấn bằng văn đã quý, bằng thơ còn quý hơn nhiều.

Thơ của tác giả Lan Thanh có hình, có nhạc và quan trọng là có tình. Tôi đánh giá cao cái tình thi sỹ dành cho mỗi địa danh, bao gồm cả cảnh và người. Bên cạnh thơ về cảnh – về địa danh, là thơ về người, xúc động là hình ảnh anh thương binh “đổi máu xương lấy khoảng trời bình yên”! sự hy sinh ấy không phải ai cũng nhận ra! càng không phải ai ai cũng biết trân trọng, sẻ chia, xót xa… để từ đó quý trọng hơn tình người và yêu thêm Tổ quốc Việt Nam. Tổ quốc được bình yên là nhờ bao chiến sỹ Cách mạng đã hy sinh, nhờ bao chiến sỹ thương binh đã gửi lại chiến trường một phần xương máu cho Tổ quốc yên bình, cho màu xanh trải dài bản đồ hình chữ S…. Và xót xa hơn là di chứng của chất độc da cam khiến con cái của các anh thương binh sinh ra không được bình thường, không được lành lặn vẹn nguyên.

Khi đến thăm nghĩa trang quốc tế Việt Lào, thi sỹ lại xót xa trước bao bia mộ, bao bia mộ ở đó là bấy nhiêu gia đình không toàn vẹn bởi chiến tranh, là cha mẹ khóc con, là vợ khóc chồng, là con mất bố… là quạnh quẽ cô đơn khi chiều buông nỗi nhớ… Cảm thương trước cảnh mà sinh tình xót thương! Để thấy nhà văn là người có trái tim nhân hậu, cảm xúc nhân văn thấm vào câu chữ, kết thành vần thơ

“Bóng chiều rụng… chắn lối đi

 Dẫu vô danh cũng khắc ghi sử vàng!”

Vâng, ai đã từng đến hẳn thấu hiểu điều này, cuộc chiến tranh ác liệt một thời đã cướp đi bao sinh mạng, có những liệt sỹ được khắc tên trên bia mộ và có nhiều liệt sỹ vô danh. (Dẫu vô danh cũng khắc ghi sử vàng)! âm điệu da diết của câu thơ lục bát làm day dứt lòng người!

Rồi khi đến ngã ba Đồng Lộc là:

Ngã ba Đồng Lộc nặng tình

Mười ngọn nến mãi lung linh bên trời”!

Sự hy sinh của 10 cô gái trẻ tại Ngã ba Đồng Lộc đã đi vào sử sách, đã xứng đáng được dệt nên huyền thoại, không ai đến đây không thương cảm, xót xa, rơi lệ. Và với nhà thơ Lan Thanh thì các cô gái trẻ còn sống mãi, như  “mười ngọn nến mãi lung linh bên trời”.

Một nội dung nữa đáng quý trong thơ Lan Thanh là với mỗi một di tích lịch sử, nhà thơ lại nhớ về những nhân vật lịch sử, nhớ về huyền thoại xa xưa, để kết nối xưa nay; để sợi dây liên tưởng quấn quyện ký ức từ quá khứ đến tương lai thành bài ca cuộc sống!

Khi thăm khu suối Ngọc vua Bà, thấy rất rõ đây là “Nơi ta say đắm”:

Thăm khu Suối Ngọc – Vua Bà

gặp người lại cứ ngỡ là…gặp tiên!

kìa ai lên núi thì lên

ta ngồi… cho thác gội trên tóc mình!

 

Xưa, Hai Bà Trưng dấy binh

giờ, sơn thủy hóa hữu tình xiết bao!

Thăm am Mỵ Châu nhớ một thời người con gái “trái tim lầm lỡ đặt lên đầu”! tình yêu say đắm lấn át lý trí, cảm xúc cá nhân choán ngợp đã khiến việc vô ý mà gây ra tai hoạ cho cả một triều đại… Chắc chắn ai đã từng đọc, đều nhớ về hành vi ấy của Mỵ Châu:

Rút lông ngỗng trên nệm áo

nàng rắc xuống suốt dọc đường

làm dấu như lời chồng dặn

để tìm cho được người thương…

Thăm Thành cổ Quảng Trị, “nhớ tám mươi mốt ngày đêm năm nào”, nhớ những ngày tháng đạn bom réo gào, người Việt Nam kiên cường “ngụy trang rợp, đắp chiến hào…tiến quân…”, bao người ngã xuống cho bầu trời xanh thêm, cho hòa bình nhanh trở lại. Như một lẽ tất yếu của người Việt Nam có truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, thầm biết ơn những người con bất diệt của dân tộc:

Đã hy sinh, chẳng tiếc thân

để bây giờ có mùa xuân bên mình!

Biết ơn và trân trọng quá khứ thì hiện tại tốt đẹp và tương lai rạng ngời hơn. Cái triết lý tưởng chừng giản dị mà vô cùng sâu sắc ấy hiện diện suốt bài thơ “Thăm Thành cổ Quảng Trị”.

Bên tượng đài chiến thắng Điện Biên thì thấy ấm áp nghĩa tình và khúc hát ngợi ca cất lên từ trái tim tác giả được nhân cách hóa thành cảnh, thành tình; cảnh và tình cũng biết hát khúc hát ngọt ngào như một bài ca đầy ân nghĩa:

Tượng đài Điện Biên lấp lánh nắng mai

trên đỉnh đồi cao ngọt ngào gió hát

bao nhiêu bậc trèo lên, bấy nhiêu tình dào dạt

lính cụ Hồ…biểu tượng mấy nghìn năm!

Rất nhiều địa danh từ huyền sử Đền Hùng linh thiêng đến Phú Quốc ngoài biển xa hay non cao Sa Pa… dù gần dù xa, đã đến là có cảm xúc, có cảm xúc là có thơ! Thơ tự do cũng có, thơ lục bát cũng có và sức nặng của thơ lục bát nằm ở cách gieo vần, khiến cho người nghe dễ thuộc, dễ nhớ:

Vua Hùng để lại cháu con

những trang huyền sử vàng son truyền đời

hồ trong, suối lượn quanh đồi

trăng treo đỉnh núi, hát lời nước non

                             (Âm vang linh khí Hùng Vương)

Hoặc những câu thơ nói về anh thương binh, sau những năm tháng đi chiến đấu, trở về làng với bao bùi ngùi, xúc động:

Chiến tranh đã qua lâu rồi

anh lại về với sông đồi quê hương

bà con, làng xóm, ruộng nương

bờ tre, giếng nước, con đường xưa quen…

                             (Anh thương binh về làng)

Đọc thơ của thi sỹ Lan Thanh, thấy tình người, tình đời đằm sâu, tha thiết, dù ngôn ngữ thơ rất giản dị, không có dấu ấn của sự gò câu, ép chữ hay cầu kỳ đẽo gọt âm tiết, thanh điệu… Theo nhà thơ Trần Đăng Khoa thì “Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh”. Thơ Lan Thanh, tập “Giấc đại ngàn” đã có được điều đó. Tất nhiên, nếu như khắc phục được một số câu thơ na ná giọng điệu câu từ quen thuộc trong dân gian, hoặc đây đó lời thơ chưa thật sự trau chuốt thì tập thơ còn giá trị hơn nhiều. Hy vọng ở những tập thơ sau, tác giả không lặp lại điều đó. Và tôi tin chắc rằng thi sỹ Lan Thanh là được, bởi đây là tập thơ thứ 13, cán mốc 20 sẽ không khó đối với nữ thi sỹ dào dạt tình người, tình đời, thơ của tuổi ngoài thất thập vẫn trẻ trung, nhiệt huyết và tha thiết với cuộc đời như tuổi đương xuân ấy.

Việt Trì, 22/11/2022.

Đ.N.T