Nghĩ về bài thơ Lính râu ria của Quang Dũng

33

Đỗ Nguyên Thương

(Vanchuongphuongnam.vn) – Khi đọc Tây Tiến tôi đặc biệt thích câu “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, yêu sự lãng mạn của chàng trai Hà Thành lần đầu ra trận. Nay đọc bài thơ Lính râu ria, tôi bắt gặp hình tượng “đêm mơ”. Có sự tương đồng chăng giữa đêm thơ đêm mơ? Thỏa trí tò mò ấy, cần tìm hiểu toàn văn bài thơ Lính râu ria của nhà thơ Quang Dũng.

Tác giả Đỗ Nguyên Thương

Khuya khoắt sông bờ vắng
Lửa hồng quán tản cư
Lính mấy chàng vất vả
Tìm sống một đêm thơ

Một người kêu cà-phê
Một anh gọi thuốc lá
Một người nhìn sau trước…
– Chị ơi! Ly rượu nhỏ!
Rượu nhỏ một ly thôi
Một ly cho đỏ mặt
Cho lên hương cuộc đời

– Chị ơi! Cháu ngủ đâu
Rồi anh bế con chị
Anh lim dim cúi đầu

Cô bé cười chúm chím
Mắt non nhìn như sao

Đôi mắt nhìn như sao
Má hồng như trái mận
Mùa đang độ ngọt ngào!

Bàn tay như rễ cây
Bộ râu hơn bàn chải
Anh ôm con người ta
Anh ôm ghì nó mãi

Cô bé năm tháng trời
Tuổi anh vừa ba mươi
Vợ anh giờ này đâu?
Anh mỉm cười rười rượi

Khi anh về đã xa
Chị dọn hàng đi ngủ
Chép miệng trong hơi chăn
Chị buồn chi không rõ

Khuya khoắt sông bờ vắng
Tiếng súng rền xa xa
Lính mấy chàng phanh ngực
Hát nhẹ lên bài ca…

Kênh đào, cuối thu đông 1948

Khi đọc Tây Tiến tôi đặc biệt thích câu “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, yêu sự lãng mạn của chàng trai Hà Thành lần đầu ra trận. Nay đọc bài thơ Lính râu ria, tôi bắt gặp hình tượng “đêm mơ”. Có sự tương đồng chăng giữa đêm thơ đêm mơ? Thỏa trí tò mò ấy, cần tìm hiểu toàn văn bài thơ Lính râu ria của nhà thơ Quang Dũng.

Quả thực, khi chưa đọc bài thơ, những tưởng lính râu ria tức là bức tranh tự họa về người lính có bộ râu quai nón, hoặc ít ra cũng là bộ râu đặc biệt trên gương mặt trẻ cho ngông, cho lạ, thậm chí cho dị… Nhưng không hẳn thế, ở đây cũng có “Bộ râu hơn bàn chải” nhưng tần số xuất hiện ít thôi, chỉ một lần duy nhất chứ không đậm đặc như hình dung ban đầu của độc giả khi đọc nhan đề bài thơ.

Bối cảnh câu chuyện để bộ râu lộ diện là

Khuya khoắt sông bờ vắng/ Lửa hồng quán tản cư/ Lính mấy chàng vất vả/ Tìm sống một đêm thơ

Có không gian và thời gian khá tường minh, trong quán tản cư,  bên bếp lửa hồng nơi bờ sông vắng, vào lúc đêm khuya có mấy chàng lính, sau ngày dài vất vả đã Tìm sống một đêm thơ. Ở  đây xuất hiện khái niệm đêm thơ, đêm thơ là một khái niệm mơ hồ, hay nói cách khác, là một khái niệm mở, có không gian tuyệt hảo cho trí tưởng tượng của mỗi người. Dẫu mỗi người có thể hình dung tưởng tượng khác nhau nhưng cùng có mẫu số chung, đêm thơ cho mấy chàng vất vả phải là sự đối nghịch với vất vả. Sẽ là nhạc, là thơ, là đèn hoa đăng….  bởi ánh sáng sẽ làm ấm không gian, xua màn đêm u tối và thơ nhạc luôn có sức mạnh tinh thần lớn lao. Một thời khói lửa chúng ta từng có khẩu hiện “Tiếng hát át tiếng bom”. Đọc thơ Quang Dũng, để thấy đêm thơ của lính vất vả?

Một người kêu cà-phê/ Một anh gọi thuốc lá/ Một người nhìn sau trước…/ – Chị ơi! Ly rượu nhỏ! /Rượu nhỏ một ly thôi / Một ly cho đỏ mặt/ Cho lên hương cuộc đời.

Thì ra, đêm thơ của lính là cà-phê, thuốc lá và ly rượu nhỏ. Đó là nhu cầu, là mơ ước ư? Với cuộc  sống đầy đủ như hiện nay thì cà-phê, thuốc lá và một ly rượu nhỏ không còn là mơ ước nữa, là chuyện nhỏ, là điều hết sức bình thường. Hiện thực khách quan cho thấy sự thiếu thốn của chiến trường gian khó, mặc dù nhà thơ không phản ánh trực diện và lính tráng chẳng hề kêu ca. Cái cách kêu ly rượu nhỏ cũng mang đầy chất lính trẻ, tinh nghịch, hóm hỉnh. Các từ ngữ như “một ly”, “rượu nhỏ” được lặp lại trong khổ thơ vừa diễn tả nét tinh nghịch của lính, vừa thể hiện chất lãng mạn của một đêm thơ. Đêm thơ là mơ ước cho một nhu cầu được giải trí, được nghỉ ngơi, được phá lệ, được vượt thoát quy định ngặt nghèo nơi quân ngũ… Đọc mà thấy rưng rưng, cay cay nơi khóe mắt. Giá như đêm thơ ấy là mấy chàng lính trẻ hát nghêu ngao hay mấy chàng “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” chắc hẳn độc giả không phải thấy cay cay nơi khóe mắt như đọc khổ thơ này. Cho hay, cuộc chiến tạo ra những con người như sắt, như đồng, có sức mạnh vượt qua bão giông và bom rơi đạn lửa. Trong số những chàng lính vất vả, tìm thú vui trong cà-phê, thuốc lá và ly rượu nhỏ ấy, có một người lặng lẽ tách biệt với một nhu cầu khác của đêm thơ

– Chị ơi!Cháu ngủ đâu/Rồi anh bế con chị/Anh lim dim cúi đầu/Cô bé cười chúm chím/Mắt non nhìn như sao/Đôi mắt nhìn như sao/Má hồng như trái mận
Mùa đang độ ngọt ngào!/Bàn tay như rễ cây/Bộ râu hơn bàn chải/Anh ôm con người ta/Anh ôm ghì nó mãi

Đoạn thơ tự sự nhưng lại đậm màu sắc trữ tình và mở rộng trường liên tưởng cho người đọc bởi sức gợi thật sâu xa…Một người lính bế con của cô chủ quán, động tác âu yếm như bế chính con mình, cháu bé xinh xắn với đôi má hồng và ánh mắt sáng như sao tận hưởng hạnh phúc được bế bồng trong tay người lính. Và người lính, với tất cả tình cảm âu yếm, yêu thương, ôm ghì đứa trẻ bằng bàn tay như rễ cây… bàn tay cứng cỏi, gân guốc, hằn in năm tháng nhọc nhằn của lao động chân tay, của việc cầm súng nơi chiến trường. Và, với nhan đề Lính râu ria thì đến đây hình ảnh bộ râu xuất hiện, cũng là lần xuất hiện duy nhất trong bài. Tần số xuất hiện hiếm hoi nhưng dư âm đọng mãi. Cũng lại là gợi nhiều hơn tả trong hình ảnh so sánh Bộ râu hơn bàn chải, rõ ràng đây không phải là mốt, không phải một hình tượng thẩm mỹ, càng không phải xu hướng thẩm mỹ, không đu trend. Ở đây là dấu ấn của gian khó, thiếu thốn.

Cô bé năm tháng trời/ Tuổi anh vừa ba mươi/Vợ anh giờ này đâu?/Anh mỉm cười rười rượi

Ôm con người, nhớ vợ mình. Quan niệm xưa “tam thập bất nhi lập”, tuổi 30 đang xoan với đàn ông nhưng tuổi 30 cũng là tuổi gây dựng cơ đồ và có con có cái. Nếu là thời bình thì giờ này bên vợ, bên con. Nỗi nhớ thẳm sâu hiển hiện thành động tác Anh ôm con người ta/Anh ôm ghì nó mãi…và chắc hẳn, chẳng ai có thể thờ ơ khi đọc câu thơ Anh mỉm cười rười rượi, nụ cười của nỗi buồn lành mạnh, của nỗi nhớ đằm sâu, của liên tưởng tự nhiên như một quy luật đã định hình về cảm xúc. Và, đêm thơ của mấy người lính rồi cũng đến lúc tàn,

Khi anh về đã xa/Chị dọn hàng đi ngủ/Chép miệng trong hơi chăn/Chị buồn chi không rõ

Không phải tâm trạng nào cũng hiển thị thành thơ và không hẳn bài thơ nào cũng tả chân được cảm xúc. Nói mà như không nói, tả mà như không tả. Đó là thủ pháp gợi mang âm hưởng của thơ Đường. Có người lính nhớ vợ, có phụ nữ buồn chép miệng trong hơi chăn…

Và khổ kết của bài thơ xuất hiện âm thanh trực tiếp chứ không chỉ là gợi mà tả như ở khổ thơ thứ nhất của bài thơ nữa. Nếu khổ thơ thứ nhất Khuya khoắt sông bờ vắng không nói âm thanh mà gợi sự vắng vẻ của âm thanh thì khổ cuối

Khuya khoắt sông bờ vắng/Tiếng súng rền xa xa/Lính mấy chàng phanh ngực
Hát nhẹ lên bài ca…

Vẫn có hình ảnh Khuya khoắt sông bờ vắng, hiện diện đủ không gian bên bến sông và thời gian khuya khoắt, lặp lại cấu trúc câu thơ mở đầu nhưng đã xuất hiện Tiếng súng rền xa xa và đã xuất hiện âm thanh của tiếng hát nhẹ từ mấy chàng lính trẻ. Không rõ lời bài ca, nhưng chắc chắn đó là bài ca về hy vọng, về niềm tin tươi sáng của ngày kháng chiến thành công.

Lính râu ria là bài thơ gọn gàng với những hình ảnh giàu sức gợi, hiện diện qua ngôn ngữ được chắt lọc từ một tác giả có vốn từ phong phú, có tâm hồn lãng mạn. Bài thơ ra đời năm 1948, khi đó, Quang Dũng còn là một chàng lính trẻ, lính Hà Thành nhiều mơ mộng nhưng không hề viển vông bởi anh đã được đứng trong quân ngũ, từng là Đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến, trực tiếp cầm súng tại chiến trường. Lính râu ria cùng với Tây Tiến, Đôi mắt người Sơn Tây, Quán bên đường là những bài thơ kết tinh nhuần nhuyễn vẻ đẹp lãng mạn và hiện thực, góp phần định hình phong cách thơ độc đáo, riêng có của nhà thơ Quang Dũng trong văn học hiện đại Việt Nam.

Phú Thọ, tháng 12/2024

Đ.N.T