Sự chuyển đổi cảm hứng khi sáng tác về đề tài gia đình trong văn học Việt Nam sau 1975

1000

Nguyễn Công Thanh

(Vanchuongphuongnam.vn) – 1. Đề tài gia đình là một đề tài lớn trong văn học Việt Nam hiện đại. Từ những năm ba mươi của thế kỷ XX, các nhà văn Tự lực văn đoàn đã khai thác rất thành công đề tài này. Những tác phẩm hay nhất, có nhiều đóng góp nhất cho nền văn học nước nhà của Tự lực văn đoàn là những tác phẩm đấu tranh giải phóng cá nhân, đấu tranh cho tự do hôn nhân, cho quyền sống của người phụ nữ chống lại sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến trong đại gia đình phong kiến.

Sau Cách mạng tháng Tám, đất nước ta phải trải qua 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc. Lúc này vận mệnh đất nước được đặt lên hàng đầu. Nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam (trong đó có văn học nghệ thuật) là phục vụ công cuộc kháng chiến kiến quốc, cổ vũ chiến đấu. Các nhà văn trở thành người chiến sĩ, chuốt nhọn vũ khí văn chương để phục vụ cho cách mạng. Họ không ngần ngại làm anh “tuyên truyền viên nhãi nhép”, hoà mình vào cuộc sống công-nông-binh, ca ngợi nhân dân, ca ngợi anh bộ đội, ca ngợi những chiến công vang dội của dân tộc… Đề tài hôn nhân – gia đình không thích hợp trong thời chiến nên được gác lại. Vì vậy, những vấn đề tình yêu-hôn nhân-gia đình dường như không được đề cập như một mảng sáng tác lớn trong văn học cách mạng Việt Nam 1945-1975.

Sau chiến thắng 30/4/1975, đất nước ta hoàn toàn độc lập, thống nhất. Lịch sử sang trang nhưng văn học vẫn trượt theo quán tính một thời gian nữa. Đề tài chiến tranh cách mạng vẫn là đề tài ưa thích của văn nghệ sĩ. Cảm hứng ca ngợi vẫn là cảm hứng chủ đạo của phần lớn tác phẩm ra đời trước 1980. Nhà văn say sưa viết, say sưa ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng nhưng độc giả đột nhiên lạnh nhạt, thờ ơ với văn học. “Người đọc mới hôm qua còn mặn mà thế bỗng dưng bây giờ quay lưng lại với anh. Họ không thèm đọc anh nữa. Sách anh viết ra, hăm hở dày cộp nằm mốc trên quầy. Người ta bỏ anh. Người ta đi đọc sách Tây và đọc Nguyễn Du”.

Đến thập kỷ 80, đặc biệt sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), không khí đổi mới-dân chủ tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học nghệ thuật. Văn nghệ sĩ được “cởi trói” tự do sáng tác. Họ có nhiều trăn trở về trách nhiệm của người cầm bút trong sự nghiệp đổi mới nền văn học nước nhà. Khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn trong văn học 1945-1975 được thay thế bằng cảm hứng đạo đức-thế sự. Con người “sử thi” trong văn học trước 1975 được thay thế bằng con người “nếm trải”. Vấn đề đời tư, bản thể, tự do luyến ái, đời sống tình dục… được đề cao. Đề tài, chủ đề không còn bó hẹp, thiên về khai thác các vấn đề liên quan đến những nhiệm vụ chính trị trước mắt mà được mở rộng từ đề tài gia đình, thân phận tình yêu, số phận con người đến chiến tranh cách mạng, sản xuất xây dựng… Các nhà văn không né tránh, ngại ngùng khi khai thác các mặt trái, góc khuất, phần chìm của hiện thực cuộc sống.

2. Đề tài gia đình có phần bị chìm lấp sau Cách mạng tháng Tám được khơi nguồn trở lại, tạo thành dòng chảy chính và thu được những thành tựu đáng kể. Có thể nói chưa bao giờ đề tài gia đình lại giành được sự quan tâm của đông đảo giới cầm bút như hiện nay. Từ các thế hệ nhà văn đã thành danh trong văn học cách mạng Việt Nam trước 1975 đến các thế hệ cầm bút trưởng thành sau 1975, thậm chí có những người còn rất trẻ, tuổi mới ngoài hai mươi như Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu… đều có tác phẩm viết về đề tài gia đình. Mặt khác, đề tài gia đình không chỉ xuất hiện trong tiểu thuyết, truyện ngắn mà còn xuất hiện trong cả trong tản văn (Chẳng hạn: Tập tản văn Nhân chuyện chị Thỏ Bông của Thảo Hảo, đã mượn hình tượng chị Thỏ Bông để nói chuyện gia đình Việt Nam hiện đại). Văn học thời kỳ này xuất hiện với mật độ dày đặc tác phẩm viết về đề tài gia đình hoặc có liên quan đến vấn đề gia đình như Mùa lá rụng trong vườn, Côi cút giữa cảnh đời, Trung du, chiều mưa buồn, Trái chín mùa thu, Mẹ già, Mẹ và con, Mất điện, Kiểm, chú bé, con người, Một chốn nương thân, Heo may gió lộng, Bồ nông ở biển, Trăng soi sân nhỏ, Anh thợ chữa khoá, Chọn chồng, Anh cả tôi, người sung sướng, Nợ đời, Suối mơ, Gái có con, Phép lạ thường ngày, Đất mầu, Nhan sắc đàn bà, Cỏ dại (Ma Văn Kháng), Cha và con và, Một cõi nhân gian bé tí (Nguyễn Khải), Thời xa vắng, Hai nhà, Sóng ở đáy sông (Lê Lựu), Bến không chồng (Dương Hướng), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Tướng về hưu, Không có vua, Tâm hồn mẹ (Nguyễn Huy Thiệp) Phố, Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Tiễn biệt những ngày buồn (Trung Trung Đỉnh), Một nửa cuộc đời, Mi-nu xinh đẹp, Nước mắt đàn ông, Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu Huệ), Hồn trinh nữ (Võ Thị Hảo), Bước qua lời nguyền, Lão khổ, Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh), Gia đình bé mọn (Dạ Ngân), Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư), Bóng đè, Dòng sông hủi, Vu quy, Bốn người đàn bà và một đám tang (Đỗ Hoàng Diệu), Cõi người rung chuông tận thế (Hồ Anh Thái), Dòng sông mía (Đào Thắng)… Trong đó có nhiều tác phẩm xuất sắc, đạt các giải thưởng cao của Hội Nhà văn và để lại nhiều dư âm trong lòng độc giả như Mùa lá rụng trong vườn, Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nỗi buồn chiến tranh, Thiên thần sám hối, Gia đình bé mọn, Cánh đồng bất tận…


Hình ảnh trong bộ phim “Cánh đồng bất tận” – chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. 

3. Các tác phẩm viết về đề tài gia đình trong văn học Việt Nam sau 1975 đã đi sâu khai thác các mối quan hệ phức tạp, đa chiều của gia đình Việt Nam trong thời mở cửa. Nhà văn tập trung phản ánh cuộc sống cá nhân trong mối quan hệ với gia đình và xã hội. Vấn đề cá tính được tôn trọng, được đề cao. Nếu như văn học cách mạng 1945-1975 thường đặt lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân thì các sáng tác về đề tài gia đình sau 1975 lại có xu hướng nghiêng về thể hiện vai trò của văn học đối với cá nhân-gia đình.

Một trong những vấn đề được khá nhiều nhà văn quan tâm là gia đình Việt Nam trước thách thức của nền kinh tế thị trường. Liệu quan niệm “một túp lều tranh hai trái tim vàng” một thời được coi là lý tưởng có còn đứng vững trước lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, coi trọng vật chất đang từng ngày, từng giờ luồn lách khắp hang cùng ngõ hẽm của xã hội Việt Nam?

Tiểu thuyết Phố của Chu Lai đã đặt ra vấn đề này một cách sâu sắc. Tình yêu của Nam và Thảo tuy được thử thách nơi hòn tên mũi đạn và ngàn ngày đằng đẵng xa nhau. Hạnh phúc tưởng như ở trong tầm tay khi Thảo “nguyên vẹn” trở về, tiền bạc dồi dào, nhà cao cửa rộng, đời sống sung túc. Vậy mà, sóng gió lại xuất hiện. Chưa đầy năm sau, bi kịch đã giáng xuống gia đình họ. Chị bỏ mạng nơi biển Sầm Sơn một ngày dông gió trong chuyến “píc níc” với tình nhân. Anh điên loạn, phẫn uất khi nhận ra mình bị phản bội. Còn cháu Niên Thảo quặn nỗi đau mất mẹ và hứng chịu những cơn thịnh nộ của bố.

Do đâu mà hạnh phúc gia đình tan vỡ? Nhiều người đã nói đến lối sống Âu – Mỹ, ảo vọng giàu sang, những dục vọng thấp hèn… đã tiêm nhiễm vào con người Thảo. Tác giả mượn lời nhân vật trong truyện cho rằng Thảo sa ngã vì “nín nhịn bên đó để về bên này chị hụt hơi” và “chị giữ gìn được thể xác nhưng linh hồn chị đã bị nhiễm độc rồi”. Nhà văn không những nhiều lần nhấn mạnh hành vi bạo liệt của tay Việt kiều luôn là nỗi ám ảnh trong con người Thảo mà còn trực tiếp bộc lộ quan niệm của mình: “Thế gian điên đảo đang tràn lan những căn bệnh thời vi tính, những căn bệnh vô thức của thế kỷ bùng nổ tình dục. Người bị hiếp dâm ám ảnh đứa hiếp mình, kẻ bị bắt cóc đâm ra phải lòng kẻ bắt cóc nó…”.

Quan niệm trên, mang nặng tính chủ quan, thiếu sức thuyết phục. Nếu phân tích thấu đáo khó chấp nhận. Theo chúng tôi, gia đình họ tan vỡ không chỉ vì Thảo “bị nhiễm độc” bởi lối sống Âu hoá mà một phần do Nam không bắt kịp với cuộc sống mới thời mở cửa và do họ chưa thật sự hiểu nhau trước khi lấy nhau. Thảo đến với Nam chủ yếu vì tò mò, vì tự ái. Sau khi lấy nhau, mọi tâm lực của họ dồn vào việc “kiếm ăn từng bữa toát mồ hồi” của thời kỳ đất nước cực kỳ khó khăn sau chiến tranh. Ba năm sang châu Âu, tiếp xúc với cuộc sống phương Tây, tầm mắt được mở rộng, quan niệm về thẩm mỹ, về hạnh phúc, về giá trị cuộc sống ở chị có nhiều đổi thay. Trong lúc, Nam vẫn khư khư giữ nếp xưa, kém thích ứng với cuộc sống mới thì Thảo lại vui thích cuộc sống hiện tại. Sống với một con người như thế, Thảo càng ngày càng cảm thấy buồn tẻ, nhàm chán. Vì thế, khi Hai Hùng xuất hiện chị nhận ra đây là con người trong mộng của mình. Chị ngã gục trước tình yêu của Hai Hùng là một hệ quả tất yếu.

Những tác phẩm viết về đề tài gia đình  hoặc có liên quan đến vấn đề gia đình của Lê Lựu thường kết thúc bi kịch. Sự đổ vỡ đó chủ yếu do sự cách biệt về quan niệm sống, về cách ứng xử, các mối quan hệ trong giao tiếp và đặc biệt hôn nhân không xuất phát từ tình yêu giữa người vợ và người chồng. Nhân vật nam trong các tác phẩm của ông thường là những người xuất thân từ nông thôn. Dù trở thành anh hùng hay trí thức thì bản chất nông dân vẫn ăn sâu trong con người họ. Ngược lại, nhân vật nữ thường là những trí thức thành thị xinh đẹp, sành điệu và lõi đời. Do đó, các chàng trí thức tỉnh lẻ ngu ngơ bị các cô gái lọc lõi dắt mũi, dẫn dụ vào những cạm bẫy ái tình khi họ đang cần một người chồng cho chính danh cái bào thai đang lớn dần trong bụng. Sài trong Thời xa vắng; Tâm, ông Địa trong Hai nhà là những nạn nhân chuyên làm nhiệm vụ “tráng men” cho loại đàn bà đó.

Dưới góc độ hôn nhân – gia đình, trong Thời xa vắng, vấn đề tình yêu và hạnh phúc gia đình luôn là nỗi trăn trở, day dứt khôn nguôi. Sài hai lần lấy vợ đều rơi vào bi kịch. Cuộc đời Giang Minh Sài là một chuỗi ngày đắng cay, chua xót. Sau bao lần đổ vỡ đớn đau anh đã ngậm ngùi tự đánh giá về cuộc đời mình: “Nửa đời người phải yêu cái người khác yêu, nửa còn lại đi yêu cái mình không có”.

Lê Lựu đã đưa ra cách biện giải tương đối hợp lý về bi kịch của cuộc đời Sài. Sài vừa là nạn nhân của hoàn cảnh nhưng đồng thời anh cũng là thủ phạm gây nên bi kịch cuộc đời mình. Anh phải im lặng chịu đựng theo ý mọi người, để được coi là người tốt, gương mẫu, nhưng mấy ai biết được Sài đang tự đánh mất bản ngã, không dám khẳng định mình, đang gồng lên đẽo gọt mình cho phù hợp với chuẩn mực của gia đình và xã hội.

Như vậy, bi kịch cuộc đời Sài không chỉ xuất phát từ sự áp đặt của gia đình, xã hội, từ sự ích kỷ, dối trá của con người mà còn do tính yếu đuối, nhu nhược, thiếu bản lĩnh của anh ta. Chính Sài đã thú nhận: “Giá ngày ấy em cứ sống với tình cảm của chính mình, mình có thế nào cứ sống như thế, không sợ ai, không chiều theo ý ai, sống hộ ý định của người khác, cốt cho đẹp mặt mọi người chứ không phải cho hạnh phúc của mình”.

Trong Hai nhà, tính chất lăng loàn, dâm đãng của người vợ được Lê Lựu đẩy lên một nấc thang mới. Cả Linh Anh và bà Mỹ Nhân đều là những con quỷ dâm dục. Họ lấy chồng để hợp thức hoá cái “của nợ” với tình nhân trong bụng. Sau khi có chồng họ vẫn ngoại tình “như cơm bữa”. Kẻ thì lén lút “ngủ với giai trong giờ làm việc cơ quan”, kẻ thì công khai hành lạc ngoài công viên giữa thanh thiên bạch nhật. Còn những ông chồng là những kẻ nhu nhược yếu đuối, thiếu bản lĩnh. Họ tận tuỵ phục vụ vợ con nhưng lại bị vợ coi thường. Thỉnh thoảng mới được “ban thưởng”, dù chỉ là “cơm thừa canh cặn” như kiểu bố thí cho kẻ ăn mày mà “háo hức như một đứa trẻ được mẹ cho quà”. Gia đình họ chỉ là sự “gá buộc”, chỉ chính danh trên giấy tờ còn thực chất trong nhà là quan hệ chủ – tớ.

Các nhân vật nữ trong Thời xa vắng, Hai nhà là những con người hai mặt. Bề ngoài là những người duyên dáng, lịch thiệp, tế nhị, mẫu mực, hết lòng yêu chồng, thương con. Bên trong lại chứa đựng bản chất ích kỷ, giả dối, lăng loàn. Tuy nhiên, có những khái quát về tính lăng loàn, dâm đãng của phụ nữ ít nhiều gây phản cảm cho người đọc, nhất là độc giả nữ. Chẳng hạn: “Tâm nhận ra một điều đơn giản nhưng mang tính qui luật là: Khi người đàn bà gặp ai dù quen thân hay xa lạ mà mở mồm ra là bêu riếu, than vãn về sự xấu xa, lỗi lầm và những thói hư tật xấu của chồng thì một trăm người như thế không sót một ai là không ngoại tình, không bồ bịch lang chạ, không chỉ với một vài người đàn ông mà có đến hàng chục người”; “Bà ấy tích trữ nhân tình như chị em mình trữ cá khô phòng bão lụt ấy. Nhân tình với cả bố nuôi 70 tuổi, với cả em nuôi kém bà ấy hai chục tuổi. Thằng nào có tiền, có quyền, có sức làm tình như trâu chọi là ngả ra cân tất”.

Ra đời vào những năm cuối cùng của thập kỷ 80, Bến không chồng của Dương Hướng, có cách nhìn mới về chiến tranh, về hiện thực cuộc sống, về tình yêu và hôn nhân – gia đình. Bến không chồng giúp người đọc thấy được mặt trái của cuộc chiến tranh. Tác phẩm không nói nhiều về chiến trường, về hy sinh mất mát của người lính mà chủ yếu nói về nỗi đau của những người mẹ, người vợ, “người gái nhỏ hậu phương”. Chồng hy sinh, họ trở thành những goá phụ cực nhọc nuôi con, đêm đêm tấm tức khóc cho số phận đơn côi. Chồng biền biệt ngoài mặt trận họ thấp thõm chờ mong trong vô vọng. Họ giữ trọn lời thề với người đi xa để đến lúc tuổi đã xế tà cũng là lúc nhận được tin anh không bao giờ về nữa. Và biết bao cô gái trẻ, khát khao yêu đương, khát khao hạnh phúc nhưng tìm đâu ra người đàn ông cho riêng mình. Họ hoặc phải chịu cảnh “chết dần” theo năm tháng hoặc phải lấy anh què anh thọt hay làm lẽ một ông lão nào đang “khát” con trai.

Đọc Bến không chồng, chúng ta không cầm được nước mắt về nỗi đau của con người, về thân phận của người phụ nữ. Hạnh là một thiếu nữ đáng yêu, đáng quý vô ngần. Hạnh dám chống lại lời nguyền để yêu thương Nghĩa. Hạnh đã hy sinh tuổi xuân chờ chồng, nuôi mẹ. Nhưng Hạnh cũng sẵn sàng rời xa chồng để anh được hạnh phúc và mẹ anh có con nối dõi. Hạnh dám làm tất cả để khẳng định mình là người phụ nữ có đủ khả năng làm vợ, làm mẹ. Hạnh là một cô gái nhân hậu, đoan trang nhưng cũng rất cương quyết, táo bạo. Chính nhờ Hạnh mà tộc họ Nguyễn bỏ được lời nguyền xưa. Nhờ có Hạnh mà cuộc đời Nghĩa thêm đẹp, thêm cao cả. Chính có Hạnh mà cuốn sách có lúc tưởng như sắp rơi vào u ám bỗng sáng bừng lên. Đó là ánh sáng của tình người, tình đời, tình yêu và lẽ sống.

Bến không chồng có tố cáo, có phê phán, có buồn đau… nhưng nổi bật nhất vẫn là ngợi ca lòng nhân ái, ngợi ca phẩm chất cao cả của con người, nhất là của những người mẹ, người vợ, người phụ nữ Việt Nam trong những năm trước và sau chiến tranh.

Thời mở cửa, bộ mặt đất nước có nhiều đổi thay nhưng mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng có những tác động tiêu cực đến truyền thống đạo đức xã hội. Vì thế, những cô gái nhẹ dạ, cả tin thường dễ rơi vào bi kịch. Trong Thiên thần sám hối, Tạ Duy Anh đã phản ánh tình trạng lừa tình xảy ra khá phổ biến hiện nay. Một khi cô gái “ểnh bụng” những “thằng chó họ Sở” tìm cách tẩu thoát. Còn những cô gái lỡ làng “dở khóc dở cười” chỉ còn cách tống tháo cái “của nợ”. Oái oăm thay khi dấu vết tưởng như được xoá sạch thì nghiệp chướng lại đeo đẳng cuộc đời họ. Họ luôn bị ám ảnh, dằn vặt về tội lỗi của mình cho nên bao lần đơm hoa nhưng không một lần kết trái.

Nhiều tác phẩm văn học Việt Nam sau 1975 đã diễn tả vấn đề tình yêu – tình dục với tinh thần lành mạnh và dân chủ. Những người đàn bà trong truyện Đỗ Hoàng Diệu thường là những người đàn bà “lãng mạn, yếu ớt và vô cùng nhạy cảm”. Họ phải sống trong cảnh cô đơn, thiếu thốn về tình cảm khi “người chồng cứ biền biệt xa nhà”. Họ sẵn sàng bỏ nhà bỏ cửa, bỏ chồng, bỏ con chạy theo tiếng gọi của tình yêu. Trong người họ lúc này “chỉ có khát vọng được sống cho chính mình”. Hoặc họ phải sống trong không khí ngột ngạt, bức bối, luôn bị đè nén, áp chế về tinh thần. Người bàn bà trẻ trong Dòng sông hủi lấy phải người chồng làm nghề “kiểm tra trí nhớ của con người”. Mỗi khi đi xa về là anh ta “xô ngã chị xuống thảm”, lột truồng ra chăm chú soi mói, kiểm tra tỉ mẩn từng sợi lông ở chỗ kín trên cơ thể chị để “ngửi tìm dấu vết một tội phạm”. Không thể chịu đựng được cuộc sống tù đày chị đành phải “cày bừa trên cánh đồng luyến ái với một người đàn ông khác” và cuối cùng trốn chạy lên Tây Nguyên sống với người đàn ông dị tật trong làng hủi.

Khác với Đỗ Hoàng Diệu thiên viết về cuộc sống gia đình thành thị, nhà văn đất Mũi Nguyễn Ngọc Tư đi sâu vào cuộc sống của những người dân sông nước nơi cùng trời cuối đất. Trong Cánh đồng bất tận nhà văn kể về cuộc đời nổi nênh của một gia đình quanh năm suốt tháng lênh đênh trên những cánh đồng bất tận, sống cuộc đời du mục với đàn vịt thả đồng.

Cuộc đời sông nước đã giúp người đàn ông “nhặt” được cô gái về làm vợ nhưng cũng chính cuộc đời nghèo đói, túng thiếu đó đã không giữ được người đàn bà xinh đẹp “có cái cười láp lánh cả khúc sông” ở lại với ông. Vì muốn khoác “những khúc vải rực rỡ lên người” chị đã phải “bán mình” cho gã thương hồ và rời xa chồng con mãi mãi. Chị bỏ chồng, bỏ con dứt áo ra đi cũng “chẳng phải suy nghĩ, đắn đo, không một chút trù trừ, chỉ rũ một cái rột sạch trơn” như khi chị đến. Quả thật, lấy chồng, có con đối với người đàn bà này “chỉ quá giang một khúc đời rồi đi” chứ chẳng phải yêu đương, ăn đời ở kiếp. Chỉ tội người đàn ông ngây thơ tin rằng: “Chỉ cần mình hết lòng yêu thương, gánh hết sự kiếm sống nhọc nhằn thì sẽ được đền đáp xứng đáng” mà không biết rằng người đàn bà thời nay chỉ yêu thương không đủ mà còn phải có nhà cao cửa rộng, ăn ngon mặc đẹp, cuộc sống đủ đầy, ái ân nồng thắm… Vì thế, khi mất vợ, ông như người điên dại thiêu trụi ngôi nhà, lang thang trên những cánh đồng bất tận để trả thù đời. Nạn nhân của ông là hai đứa trẻ và những người đàn bà vô tội. Ông hành hạ, đánh đập lũ trẻ vì chúng là con của “người đàn bà bội bạc” và chúng “càng lớn càng giống má”. Ông trút hận lên đầu những người phụ nữ nhẹ dạ, cả tin vì họ là đàn bà. Ông “tính toán rất vừa vặn, sao cho vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng và bỏ rơi họ đúng lúc”; ông “mang họ đi một quãng đường, vừa đủ để người đó nhìn rõ chân dung của sự phản bội, sau đó người đàn bà bị hắt lên bờ. Con đường quay về bị bịt kín”. Hành động trả thù của ông quá nhẫn tâm, tàn ác, đúng như lời nhận xét của một người đàn bà trong truyện: “Má cưng ác một, nhưng người cha của cưng ác tới mười đó!”. Dĩ nhiên, những hành động trả thù đầy mưu mô, tính toán của ông đã phải trả giá. Không chỉ những nơi ông đi qua, những “giọt tình” đắng cay ông để lại đã sinh ra những đứa trẻ tên Hận, tên Thù “mang khuôn mặt rắp tâm”, “nhàu úa, cộc cằn, cắm cẳn”… như ông; mà ông còn bị những tên côn đồ chăn vịt đè nghiến, bắt chứng kiến cảnh chúng thay nhau hiếp con gái ông giữa đồng. Tưởng như hận thù nối tiếp hận thù, nhưng truyện lại kết thúc một cách tươi sáng đầy nhân văn. Người con gái trong giây phút đau đớn, ê chề, nhục nhã đến tột cùng vẫn nghĩ đến tương lai cho đứa trẻ nếu như mình có con: “Đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hường … Đứa bé đó không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống hết đời vì được mẹ nuôi, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn”.

Tiểu thuyết Gia đình bé mọn của Dạ Ngân ra đời vào đầu thế kỷ, đạt Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2005 và Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2006 đã khẳng định đề tài gia đình là một đề tài lớn đang “vẫy gọi” các nhà văn cày xới, thâm canh.

Gia đình bé mọn kể về số phận một nữ sĩ có cá tính, có nhan sắc và khát vọng yêu đương mãnh liệt. Không thoả mãn cuộc sống với người chồng tầm thường, đầy tham vọng quyền lực, chị đã sẵn sàng từ bỏ gia đình ấy để đến với người mình yêu xây nên gia đình bé mọn. Tuy nhiên, hành trình tìm hạnh phúc của Tiệp trải qua biết bao chông gai, khổ ải. Chị phải đối mặt với những rào cản của gia đình, dòng tộc đến búa rìu dư luận và giới chức sắc trong tỉnh. “Nhưng đau đớn và day dứt hơn cả là sự giằng xé và níu kéo của tình mẫu tử, mặc cảm của một người mẹ không thể đem lại cho các con mái nhà êm ấm” .

Viết Gia đình bé mọn Dạ Ngân muốn khẳng định chân lý: hôn nhân không tình yêu là hôn nhân cằn cỗi, sớm muộn cũng tan vỡ và sức mạnh tình yêu có thể giúp  người phụ nữ vượt qua mọi phong ba bão tố.

Cuộc hôn nhân lần đầu của Tiệp do chiến tranh, chết chóc đưa đẩy. Nàng bị “chiếm đoạt” lúc ranh giới giữa cái chết và sự sống được tính bằng tích tắc. Do đó, vật liệu xây dựng nên gia đình họ “chẳng có chút kết dính nào ở những phẩm chất nhân tính cơ bản”. Sau ngày cưới, khi hương vị ngọt ngào, đắm say của tuần trăng mật đang nồng cháy, tràn đầy, “con tim nàng không chịu rung động, nó cứ lên tiếng rằng đây không phải là người đàn ông của mình, đây là cuộc xô đẩy của chiến tranh, của bom đạn giặc giã nước lụt cây sạp xuồng”. Càng sống với Tuyên nỗi đau trong Tiệp càng ngày càng tăng lên, sự không tương hợp giữa nàng với Tuyên càng ngày càng lộ diện. Một con người có cá tính, đam mê, khát khao hạnh phúc như nàng làm sao chấp nhận  người chồng vô tâm, vô nhân tính vội vàng thả vợ xuống bệnh viện phụ sản không một lời động viên, an ủi rồi nhanh chóng phóng xe đến cơ quan hoàn thành phận sự người thư ký mẫn cán? Làm sao chấp nhận người chồng không đùa giỡn với con nhưng lại “ thích săm sắm với lũ heo”? Làm sao hoà hợp được với người chồng coi công danh là mục đích phấn đấu và bắt vợ phải đồng hành với mình trên con đường chính trị “lên nữa, lên mãi”? Vì thế, việc Tiệp chia tay với Tuyên để được sống với chính mình, sống với người mình yêu là điều dễ hiểu.

Tuy nhiên hành trình từ giã gia đình giả tạo, khập khểnh ấy để đến với gia đình đích thực đầy thử thách cam go. Lái được con tàu tình yêu cập bến hạnh phúc sau mười hai năm đằng đẳng, Tiệp đã phải trả giá khá đắt: bị dòng tộc từ bỏ, một số bạn bè xa lánh, dư luận xã hội lên án, lương tâm cắn rứt, tình mẫu tử luôn lên tiếng kết án nàng là một – người –  mẹ – bỏ – con để đi lấy chồng. Tiệp phải sống trong tâm trạng dằng xé giữa tình yêu và tình mẫu tử: “Khi còn trong cổng rào với Thu Thi và Vĩnh Chuyên thì sự ray rứt tranh đấu với nỗi thương yêu thèm nhớ Đính, nhưng khi tàu đưa nàng xa dần, xa mãi ra thì những ý nghĩ về các con chiếm lĩnh toàn bộ mọi thứ có tên là sự sống trong nàng”. Nhưng “vượt lên trên tất cả những cái đó, tác giả cho thấy một mẫu hình phụ nữ chủ động lèo lái con thuyền cuộc đời mình, một phụ nữ kiên nhẫn tới mức “lì lợm” để sống thật và sống đẹp với chính nhu cầu tinh thần của mình”.

Hạnh phúc không tự đến, không chờ sự ban phát. Hạnh phúc chỉ có được trong quá trình tìm kiếm gian lao. Cũng như những người đàn bà có bản lĩnh, có khát vọng yêu đương mãnh liệt khác, Tiệp đã chủ động trên con đường đi tìm hạnh phúc đầy chông gai của mình. Có lúc nàng phải thổi bùng lên ngọn lửa quyết tâm, tạo thêm sinh lực cho người mình yêu. Nàng không chấp nhận sự chần chừ, thoái lui. Vì thế, khi nghe tin Đính có ý định “hẹn nàng ở kiếp sau”, nàng lập tức báo cho chàng biết mình đã ra khỏi nhà và yêu cầu Đính cũng làm như thế. Thậm chí, nàng còn thẳng thắn nói với Đính: “Nhưng sao chỉ có em hành động còn anh thì có quyền viện lý?”.

Là nhà văn nữ, lại có nhiều điểm tương đồng với nhân vật trong truyện, Dạ Ngân như hoá thân vào Tiệp thể hiện sâu sắc, tinh tế những cảm giác, cảm xúc rất phụ nữ khi được sống với người mình yêu thương. Gia đình bé mọn có nhiều trang viết về những phút thăng hoa của tình yêu, những cuộc tình nồng cháy, những chuyện sâu kín ở phòng the: “Nàng trôi trên người Đính như lúc nãy Đính đã cẩn trọng với từng xăng- ti – mét thịt da nàng. Tiệp thấy mình bạo dạn và lão luyện, sự nhịp nhàng của thịt da đằm thắm, ngọt ngào. Từ thế thủ nàng đã ào sang thế chủ, một cực khác của lần đầu, nàng bốc cháy từ gót chân đến đỉnh đầu, chính danh hay không chính danh, tà dâm hay không tà dâm, chỉ thấy mình đúng là mình trong tưởng tượng, thoả mãn một cách hài hoà, sâu sắc”. Hoặc những khát khao cháy bỏng đến cồn cào, gào thét của đòi hỏi ái ân: “Nàng nhớ những cơn thèm sau khi rời Đính ra, cơ thể lúc đó như người đang ăn thịt mà phải chuyển sang chay tịnh, những cơn đói thực sự trên người, ở những vùng nhạy cảm nhất trên người là một thứ đói trơ trẽn, thúc bách, thường trực y như đói ăn và khát uống vậy”. Nhưng người đọc không thấy phản cảm, không kết án Tiệp chạy theo nhục cảm xác thịt mà càng quý, càng thương, càng trân trọng và ngưỡng mộ nàng bởi tình dục là một phần quan trọng của tình yêu và nàng là người đã thẳng thắn công khai những đòi hỏi chính đáng đó. Hơn thế, Tiệp đến với Đính đâu phải là chuyện “trăng hoa” của những cuộc tình trong chốc lát để thoả mãn nhục dục mà là “vàng đá”, là xây dựng hạnh phúc bền lâu. Chính Tiệp đã nói với Đính: “Em thèm khát hạnh phúc, em không bừa phứa, em không chấp nhận cái gì không đi đến đâu?”. Tiệp không ‘bừa phứa”! Tiệp trọng danh dự, Tiệp thích đàng hoàng. Nhưng không phải đàng hoàng theo kiểu giả dối “tốt khoe xấu che” như quan niệm của cô Ràng và luân lý cổ hủ  mà đàng hoàng là chân thật, rạch ròi sòng phẳng.

Trong các nhà văn viết về đề tài gia đình, Ma Văn Kháng là người đi đầu trong việc đổi mới tư duy nghệ thuật, đổi mới cách viết và gặt hái được những thành công đáng khâm phục. Những tác phẩm hay nhất, góp phần tạo nên phong cách nghệ thuật văn xuôi Ma Văn Kháng chính là những tác phẩm viết về đề tài gia đình. Các tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn, Côi cút giữa cảnh đời cùng các truyện ngắn Trung du, chiều mưa buồn, Trái chín mùa thu, Mẹ già, Mẹ và con, Mất điện, Kiểm, chú bé, con người, Một chốn nương thân, Heo may gió lộng, Bồ nông ở biển, Trăng soi sân nhỏ, Anh thợ chữa khoá, Chọn chồng, Anh cả tôi, người sung sướng, Nợ đời, Suối mơ, Gái có con, Phép lạ thường ngày, Đất mầu, Nhan sắc đàn bà, Cỏ dại… là những sáng tác thuộc loại đặc sắc nhất, góp phần quan trọng “đặt Ma Văn Kháng vào đội ngũ những cây bút đang có nhiều đóng góp to lớn vào việc đổi mới nền văn xuôi nghệ thuật của dân tộc”. Phần lớn những tác phẩm đạt giải thưởng Quốc gia và khu vực của Ma Văn Kháng là những tác phẩm viết về đề tài gia đình hoặc liên quan mật thiết đến vấn đề gia đình như tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn, tập truyện Trăng soi sân nhỏ. Chính nhà văn đã chọn Côi cút giữa cảnh đời làm tác phẩm hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của mình. Ngay cả những tác phẩm thành công viết về đề tài khác như Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ, Thầy Khiển, Thầy của chúng em, Tóc huyền màu bạc trắng… vấn đề gia đình vẫn được thể hiện khá sâu sắc. Gia đình trở thành nơi khởi đầu, nâng đỡ, hoặc đoạ đày, kết thúc bi kịch của người trí thức.

Xét trong mối tương quan với các cây bút sáng tác về đề tài gia đình Việt Nam sau 1985 như Lê Lựu, Dương Hướng, Chu Lai, Nguyễn Thị Thu Huệ, Dạ Ngân, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu… thì Ma Văn Kháng nghiễm nhiên trở thành “chủ tướng” trong việc khơi lại nguồn mạch viết về đề tài gia đình vốn bị ngưng đọng gần nửa thế kỷ trong văn học Việt Nam hiện đại. Ông không chỉ là người đi tiên phong trong đổi mới tư duy nghệ thuật, đổi mới đề tài sáng tác, nắm bắt kịp thời những vấn đề cấp bách xã hội đặt ra đối với người nghệ sĩ có lương tâm và trách nhiệm mà còn để lại những dấu ấn riêng trong từng thể loại. Những tác phẩm hay nhất của Ma Văn Kháng không chỉ đẩy ta vào “dòng đời”, “mạch sống” hôm nay mà nó còn “gắn nối với mạch văn truyền thống là chủ nghĩa nhân văn và tình yêu thương con người”. Vì vậy, bên cạnh phê phán, đả phá lối sống ích kỷ, buông thả theo những dục vọng thấp hèn, chạy theo đồng tiền của con người trong nền kinh tế thị trường, ông còn phát hiện được sức mạnh tiềm tàng trong con người Việt và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc tạo trụ đỡ cho con người và cộng đồng dân tộc. Nhà văn thường không kết tội nhân vật lầm lạc mà kêu gọi cộng đồng hãy quan tâm đến cá tính của con người và cuộc sống gia đình. Tác phẩm viết về gia đình của ông thường kết thúc tươi sáng, lạc quan chứ không bi thảm như trong tác phẩm của Lê Lựu, Chu Lai, Trung Trung Đỉnh hoặc dằng xé, trả giá theo triết lý vay – trả của Dạ Ngân.

4. Trong văn học Việt Nam hiện đại, đề tài gia đình được các nhà văn Tự lực văn đoàn quan tâm khai thác để triển khai mặt trận chống lễ giáo phong kiến. Trong văn học cách mạng Việt Nam 1945 – 1975 đề tài này có phần bị sao lãng. Điều đó không chỉ thể hiện ở số lượng tác phẩm mà còn thể hiện ở cách nhìn nhận, thể hiện vấn đề gia đình của nhà văn. Gia đình không được nhìn nhận từ các quan hệ thuộc nội bộ gia đình, quan hệ gia đình – xã hội mà nhìn nhận trên lập trường giai cấp, từ lý tưởng xã hội. Sau 1975, trong hoàn cảnh bình thường, văn học nước ta chuyển từ cảm hứng sử thi hào sảng sang cảm hứng đạo đức – thế sự. Vấn đề cá nhân-cá thể được đặt lên hàng đầu. Đề tài gia đình trở thành một đề tài lớn trong văn học Việt Nam đương đại, đã và đang được các nhà văn trăn trở, khai thác. Tuy nhiên, những tác phẩm lớn vẫn đang ở phía trước.

Như vậy, đề tài gia đình tuy có những bước thăng trầm theo tiến trình lịch sử, nhất là trong thời kỳ vận mệnh đất nước được đặt lên hàng đầu, nhưng cuối cùng đã hoà vào các đề tài khác, góp phần đưa văn học Việt Nam đi đúng quỹ đạo văn học nhân loại, thực sự trở thành một ngành khoa học về con người, vì con người.

N.C.T