Tần Hoài Dạ Vũ – Hồn thơ đa cảm (phần 2)

962

Hoàng Thị Bích Hà

(Vanchuongphuongnam.vn) – Có dịp đi sâu tìm hiểu để viết về tác giả Tần Hoài Dạ Vũ, tôi không khỏi đi từ ngạc nhiên đến thán phục và ngưỡng mộ một con người. Anh là một nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà báo, nhà giáo… và còn là nhà hùng biện nữa.

Nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ

Phần 1

  1. Tần Hoài Dạ Vũ với quê hướng xứ Quảng 

Tần Hoài Dạ Vũ sinh tại vùng đất Giao Thủy, Đại Hòa, Đại Lộc, thuộc tỉnh Quảng Nam. Ngay từ thời là học sinh Trung học, rồi là sinh viên Đại học, anh đã học hành và rồi làm thầy giáo ở Huế. Quãng đời trai trẻ của Tần Hoài Dạ Vũ gắn bó với thành phố Huế. Lúc ở độ tuổi ngoài 30, Tần Hoài Dạ Vũ lại sống và làm việc ở thành phố phương Nam đầy nắng gió nhưng lòng anh bao giờ cũng đau đáu hướng về quê hương, về nguồn cội. Ở nơi đó, tuổi thơ của thi nhân đã đi qua, nên Tần Hoài Dạ Vũ yêu quê bằng tất cả tâm hồn mình… Ở nơi đó, những kỷ niệm của tuổi ấu thơ không thể phai mờ, và sẽ là hành trang mang theo trên bước đường lữ thứ. Đọc bài thơ “Xuân tha hương”, mà Tần Hoài Dạ Vũ đề tặng “gửi làng xưa và các bạn trẻ ở quê nhà“, lòng chúng ta chùng xuống, không thể không xao động, bâng khuâng, mà quay về với những kỷ niệm ở quê nhà, với cội nguồn, với tổ tiên:

Nhớ quê mà ứa lệ
Ngàn dặm không lối về
Thôi thì đành lỗi hẹn
Rét ngọt hồn tháng giêng
(Xuân tha hương)

Và đây nữa:

– Thân như bèo xa bến
Mang sầu trôi trăm miền
Xuân kêu trong nắng mới
Mùa cậy mình trong cây

– Hồn quê thành sợi khói
Bay quanh chén rượu đầy”
(Xuân tha hương)

Và nhất là mỗi dịp xuân về tết đến, mọi gia đình đều quây quần sum họp bên “cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh” thì nỗi nhớ quê lại trỗi dậy trong lòng thi nhân da diết hơn bao giờ hết, và đây là những dòng tâm sự của anh:

Càng những năm về sau này, tôi lại cảm thấy lòng mình trĩu nặng nỗi nhớ quê. Nhất là những ngày cuối năm, khi trời chợt âm u, hơi bãng lãng một chút sương mai (ở cái thành phố phương Nam quanh năm nắng gió này, điều ấy thật hiếm), tôi lại càng thấy nặng lòng nhớ quê. Trong trí nhớ còn thơm lừng cái tuổi dậy thì của tôi, hình ảnh vuông sân đầy hoa cải vàng của mẹ tôi như vẫn còn vàng tươi màu hoa và cánh bướm. Mà càng nhớ quê, tôi lại càng muốn dùng những năm tháng cuối của đời mình để viết được càng nhiều càng tốt về những gì mà quê làng xưa đã rộng lượng ban tặng cho tâm hồn tôi”. (Báo Quảng Nam Chủ nhật, 20.2.2005).

Khi đã bước vào tuổi tri thiên mệnh, tấm lòng của nhà thơ với nỗi nhớ thương quê nhà vẫn đầy ắp trong tâm khảm:

Hồn quê như ngọn gió
Thao thức suốt đời ta
(Quê thiêng)

Có yếm mẹ bên thềm
Lửa hồng nồi bánh tét
Có tiếng gà sang đêm
Giọng chùng hơi giá rét”
(Nhớ mùa xuân tuổi thơ)

Dù có đi đâu về đâu, nơi góc biển chân trời, thì hình ảnh quê hương là bóng mẹ bên thềm, là vườn hoa cải vàng, là mái đình, tiếng gà trưa, nồi bánh tét… không thể nào quên!

Bao nhiêu năm vẫn nhớ
Mái đình nghiêng trong sương
Qua bao mùa thương khó
Lòng quê đau dặm trường
(Nhớ mùa xuân tuổi thơ)

Mảnh đất quê hương xứ Quảng của thi nhân hiện ra trong thơ với đầy đủ phẩm chất kiên cường, trong mọi hoàn cảnh. Con người ở đó hiếu học, thông minh và luôn “vươn tới tương lai”:

Dù đi bốn phương trời
Vẫn nhớ về quê cũ
Mảnh đất lành phên dậu (1)
Rạng hồn thiêng tổ tiên

Tần Hoài Dạ Vũ gọi quê hương là “Quê thiêng”, ẩn chứa bao điều thiêng liêng trân quý, ngưỡng vọng và biết ơn. Bởi quê hương nơi chôn nhau cắt rốn của anh, nơi có những người thân thương ruột thịt, có bạn bè cả một thời thơ ấu… và quê hương nơi có dòng sông Thu Bồn… tất cả đã hun đúc nên hồn thơ Tần Hoài Dạ Vũ.

Tạ ơn con sông dài
Chảy vào lòng thương nhớ”
(Quê thiêng)

“Quý tặng người xứ Quảng trên khắp mọi ngả đời”, Tần Hoài Dạ Vũ đã đề tặng bài thơ này như thế !

Trong mơ lại thấy quê nhà
Ngàn năm một phút vẫn là bể dâu”
(Tình mộng)

Tần Hoài Dạ Vũ gửi gắm nỗi nhớ quê của mình vào những vần thơ cho xứ Quảng, mà độc giả  đọc thơ anh cũng không khỏi bùi ngùi chạnh nhớ về những kỷ niệm ấu thơ nơi quê hương của mình, mà ước ao trở lại quê nhà khi “gót mỏi đường đất lạ”, trong bước đường lữ thứ, mưu sinh…

Có buổi trưa nào nắng vàng như lụa
Lòng quê xa vẫn gọi gió đi về
Sông cứ chảy để ta chờ lâu quá
Biết bao giờ thấy giọt nắng xuân quê ?
(Nắng xuân quê)

Tuổi xuân đã lạnh tiếng đàn
Xót làm chi buổi tiệc tàn bể dâu
Dặm xa quán trọ cơ cầu
Mùa xuân mây trắng ngang đầu nhớ quê”
(Nửa đời lưu lạc)

Tần Hoài Dạ Vũ viết về cội nguồn với tất cả tình yêu quê hương tha thiết nên thơ anh tràn đầy cảm xúc, và đặc biệt, ẩn chứa trong thơ Tần Hoài Dạ Vũ là tình đời, tình người, tình yêu thiên nhiên xứ sở.

Dù có đi tận chân trời, góc biển Tần Hoài Dạ Vũ lúc nào cũng đau đáu hướng về quê hương với một tình yêu vời vợi, tha thiết không bao giờ nguôi!

 

  1. Tần Hoài Dạ Vũ với Huế

Tần Hoài Dạ Vũ sinh ra ở quê hương Quảng Nam nhưng suốt quãng đời đi học và thời trai trẻ anh đã sống ở cố đô Huế. Có thể nói, tuổi xuân của Tần Hoài Dạ Vũ gắn bó mật thiết với xứ Huế mộng mơ, nên anh đã từng nói, như một lời tâm sự với Huế: “Người hãy giữ gìn một nửa tim tôi”. Những hình ảnh của kinh đô đế vương của một thời, cầu Trường Tiền lộng gió và những tà áo trắng buổi tan trường đã đi vào thơ Tần Hoài Dạ Vũ. Tình yêu dành cho Huế tạo nên cảm hứng dạt dào khi Tần Hoài Dạ Vũ viết những vần thơ về Huế. Khi xa Huế, anh thương nhớ Huế đến nao lòng và đã day dứt không nguôi.

Trong bài “Từ biệt Huế” có lẽ cảm xúc của Tần Hoài Dạ Vũ đã trào dâng không kìm nén và anh viết một mạch gồm 77 câu thơ. Đó là một bài thơ dài, có lẽ nhờ thế mới diễn tả hết tình yêu và nỗi nhớ Tần Hoài Dạ Vũ dành cho Huế. Dù yêu Huế thiết tha mà anh đành phải xa Huế. Hãy nghe tâm sự của tác giả:

Nghe tiếng gọi của xa xăm tôi lại lên đường
Nhưng làm sao lòng quên được Huế
Huế của bây giờ và Huế của mai sau
Ôi dòng sông tâm hồn tôi ở đó.
(Từ biệt Huế)

Anh nhớ hình ảnh chiếc nón bài thơ che nửa miệng cười duyên dáng của cô thiếu nữ Huế trên một ngả đường vào Thành Nội:

– Chiếc nón nghiêng che một nửa môi cười
Chiều không tàn trên những lối phượng rơi
Có ngọn gió nào thổi lòng tôi vào Nội
Năm tháng không thể rơi ra ngoài một tiếng hát trong.

– Ôi Huế của bây giờ và Huế của mai sau
Huế của những gì đã qua và những gì sẽ tới

– Người hãy giữ gìn một nửa tim tôi

(Từ biệt Huế)

Phải chăng bóng dáng giai nhân xứ Huế đã từng là cảm hứng sáng tác của thi nhân? Vẫn biết là giữa cuộc sống bộn bề, thơ vẫn là thơ, tình vẫn là tình, nhưng những người thơ, những người tình cũng từ cuộc sống đi vào thơ, để làm nên chất liệu và ý nghĩa của cuộc đời. Cảm xúc Tần Hoài Dạ Vũ viết về Huế, khi sôi nổi nồng nàn, khi thiết tha sâu lắng, và cũng đầy suy tư và chiêm nghiệm:

Con đường đó có những ngày đầy gió
Có những lần mưa bụi ướt câu thơ
Em đi qua như vạt nắng tình cờ
Tiếng ve gọi quanh chỗ ngồi thương nhớ”
(Về một con đường Thành Nội)

– Lòng tôi là hạt phù sa nhỏ
Hòa nước sông Hương chảy cuối trời
(Ghi chép của một người thức khuya)

Hình ảnh dòng sông, mùa xuân, là tạo vật, là cái cớ để tác giả gửi gắm nỗi niềm.

“Dòng sông phía chân trời”

                                 gửi Huế xưa

Em xa quá mà mùa xuân nắng ấm
Nhớ sông xưa con sóng vỗ nồng nàn
Sông bây giờ bồi lấp bóng thời gian
Chiều mây trắng về quanh hồn đa cảm 

Tần Hoài Dạ Vũ nhớ đến “Tiếng còi tàu thay lời hẹn chung đôi/ Sân ga nhỏ một người về mưa bụi”. Đó là buổi chia tay từ biệt Huế, từ biệt một người chăng? Trong ký ức thi nhân chợt hiện về “một bóng mặt trời mọc về phía núi”, “một con đường”, “buổi tóc xanh”, “môi đỏ thầm thì”… và cả “Đêm tháng Chạp vụng về tay cỏ biếc”…  Hình ảnh giai nhân xuất hiện trong thơ Tần Hoài Dạ Vũ rất rõ nét, có lẽ đó là buổi hẹn hò đầu đời (?). Tình yêu mới chớm đẹp quá! Nên thơ quá! Mà cũng sẽ là kỷ niệm khó phai mờ với Huế.

Anh sẽ giong thuyền trên nước xanh
Chở trăng Gia Hội vào Nội Thành
Soi nghiêng mái tóc thề Tôn Nữ
Thiếp giữa một vùng hương mỏng manh

Rồi hẹn ngày trở lại cố đô:

Anh sẽ về một sáng mùa thu
Sông Hương còn trắng những sương mù
Áo em trắng nhịp cầu thương nhớ
Bóng ngã lòng anh câu hát ru
(Hẹn về với Huế)

Bến đò Thừa Phủ, nơi đưa đón những cô cậu học sinh của hai trường Quốc Học và Đồng Khánh đã đi vào thơ Tần Hoài Dạ Vũ.

Bài thơ anh viết: “Gửi bến đò Thừa Phủ”

Ai chia lệ cho mắt đời thôi đỏ
Đò chưa qua mà tim mắc trên cành
Bến sông đó dẫu chẳng còn trăng tỏ
Anh vẫn về tắm lại tuổi  xuân xanh”
(Nhớ bến xuân)

Và chắc chắn rồi anh sẽ lại về thăm nhé! Huế yêu ơi!

Chờ anh về thăm nhé, Huế ơi!
Đường xa nhưng không thể sai lời
Chiều nay nắng trở trong lòng mắt
Con nước linh hồn không muốn trôi
(Hẹn về với Huế)

Có thể nói tình yêu Huế trong anh đã đi vào những sáng tác dành cho Huế, giản dị mà sâu sắc, chứa chan tình yêu Huế nồng nàn mà sâu lắng. Những bài thơ Tần Hoài Dạ Vũ viết cho Huế như một lời tâm tình nhẹ nhàng  sâu lắng và lãng mạn.

 

  1. Nỗi đau đời và tâm thế an nhiên trong thơ Tần Hoài Dạ Vũ

Tần Hoài Dạ Vũ đến với bạn đọc là thi nhân  đã gửi hết nối niềm của mình vào thơ. Những nỗi ưu tư, trăn trở trước số phận con người. Đó là khát vọng của một nhân cách lớn hình thành trải nghiệm trong sóng gió cuộc đời. Thi nhân yêu cuộc sống, yêu con người, và giàu  lòng nhân ái trong từng trang viết. Tìm hiểu qua thời gian, theo những biểu lộ tư tưởng và lần theo những sắc màu cảm xúc, ta thấy nỗi đau nhân tình thế thái, ưu tư với từng số phận nhỏ nhoi của kiếp người, là nỗi buồn xuyên suốt trong toàn bộ sáng tác của Tần Hoài Dạ Vũ. Dẫu đó có là thơ tình đi chăng nữa, thì ẩn trong da diết, đắm say, ngọt bùi, có cả đắng cay, nên nỗi buồn vì thế mà bâng khuâng  phủ lên những dòng cảm xúc của anh. Có lẽ sứ mệnh của thơ anh là chuyển tải những buồn vui của kiếp người. Trong nghịch cảnh, nhà thơ vẫn không để nỗi bi quan lấn át, đến độ chán nản tuyệt vọng, mà luôn có tâm thế an nhiên. Ngòi bút của anh, vì thế, rất phóng khoáng. Tần Hoài Dạ Vũ không trách ai, chỉ tự trách mình và biết ơn những gì mà cuộc đời đã mang lại cho mình.

Chong đèn khuya tìm mình trong trang sách
Lắng lòng theo những chớp bể mưa nguồn
Anh hổ thẹn nhận ra mình trong sạch
Vì chưa một lần thắng được nỗi cô đơn
(Tự khí)

Và tấm lòng thi nhân lúc nào cũng dằng dặc nỗi ưu tư:

Lòng riêng có buổi quên sầu
Dẫu con chim hót bên cầu quạnh hiu
Tay ai cố níu bóng chiều
Hỏi người nhan sắc khóc điều tang thương
(Uống cạn nổi trôi)  

Thơ Tần Hoài Dạ Vũ chứa đựng những triết lý sống bằng những trải nghiệm của riêng mình:

– Khi đã tận hiến tất cả và mất tất cả
Người ta sẽ học được rất nhiều từ thất bại
hơn là từ thành công

– Chỉ những ai bàn chân từng nhức nhối gai đời
Mới có thể hiểu được nỗi đau người khác

– Ai chưa khóc bằng trái tim đẫm lệ
Làm sao có thể tin được nụ cười
(Ghi chép của một người hay thức khuya)

Tần Hoài Dạ Vũ nói về nỗi buồn mà lại xem mình là “hôn phu của cay đắng”, nghĩa là anh “kết hôn” với nỗi đắng cay.

– Là hôn phu của cay đắng
tôi luôn được nuông chiều trong căn nhà
của buồn đau”
(Người mất mùa xuân)

– Mãi mê đuổi bắt âm thanh và sắc màu trên phố
Rồi dệt lòng mình thành khúc hát thương đau

Thi nhân nhận nỗi đau của mình và của đời rồi chuyển tải cảm xúc vào những câu thơ làm lay động lòng người:

Anh là kẻ thích làm đầy nỗi đau trong lòng
Rồi nắn nỗi đau ấy thành những lời ca
Anh thường xuyên dị ứng với quyền lực
Anh hòa tan trong đám đông
Nhưng lại chẳng bao giờ là đám đông”
(Phác họa chân dung một nhà thơ)

Tần Hoài Dạ Vũ đau nỗi đau đời khi mà giữa cuộc sống bộn bề vẫn còn đó những bất công:

Thời của ai? Thời của anh? Máu nhỏ xuống nhữngđêm dài loang lổ giấc mơ, máu nhỏ xuống chén cơm khô suốt một thời thơ dại, những cánh đồng ngập nước mắt chiều đông. Lưng mẹ mỗi ngày thêm còng xuống là dấu hỏi in đậm bóng hình năm tháng, những dấu hỏi trước cuộc đời không có lời giải bình yên. Có một ai đó đã cướp đi giấc mơ của mẹ; có một ai đó đã thản nhiên ngoảnh mặt trước những tiếng kêu xé lòng; có một ai đó đang hân hoan xếp những đống tiền dày chồng lên quá khứ”…
(Về một nỗi đau đời)

Thi nhân buồn nỗi buồn của mẹ, của những kiếp người… còn mưu sinh vất vả trước những bất công vẫn tồn tại đâu đó quanh ta. Nhà thơ đi vào mỗi số phận, mỗi kiếp người để cảm thông, để bày tỏ, để nói lên tiếng nói công bằng, tìm về công lý và hơn hết gửi gắm khát khao ước ao hạnh phúc bình yên cho mỗi một số phận trên cuộc đời này.

Đó là sự lựa chọn về thái độ sống của Tần Hoài Dạ Vũ trước sóng gió cuộc đời vẫn còn đó những nhiễu nhương thế sự. Và anh đã đối diện với nỗi đau đời bằng một tâm thế an nhiên.

– Anh đến giữa cuộc đời này như ánh trăng chợt soi

                                                            bóng nước
Và sẽ ra đi như đám mây tan rã phía chân trời.

(An nhiên)

– Trở lại đường xưa cỏ héo tàn
Làm khách lạ anh giã từ quá khứ
(Giã từ quá khứ)

 

  1. Thi pháp thơ Tần Hoài Dạ Vũ 

Để hiểu hơn về thơ Tần Hoài Dạ Vũ, ta hãy đi tìm thi pháp, bởi vì thi pháp là mấu chốt của thơ, là toàn bộ các đặc điểm về hình thức nghệ thuật trong thơ. Việc sáng tác thơ và những đặc điểm nghệ thuật trong thơ mà Tần Hoài Dạ Vũ đã sử dụng như một thủ pháp để chuyển tải thông điệp từ trái tim thi nhân đến với đọc giả để dẫn dắt người đọc, người nghe đi từ cảm nhận đến yêu thích, là thuộc về sự tài hoa của  nhà thơ.

Các sáng tác của Tần Hoài Dạ Vũ có sự kế thừa của thi pháp truyền thống và thi pháp hiện đại. Anh có những bài thơ lục bát làm theo thi pháp truyền thống và từ đặc trưng cấu trúc ngữ nghĩa câu thơ nền nả, chỉnh chu:

Tuổi xuân đã lạnh tiếng đàn
Xót làm chi buổi tiệc tàn bể dâu

Cuộc sống,  tình cảm vốn đa chiều, nhiều gam màu và nhiều cung bậc tình cảm, thì thi pháp hiện đại mới đủ cho ngòi bút phóng khoáng của nhà thơ bay bổng hơn trong việc diễn tả cảm xúc. Vì vậy, phần lớn các sáng tác của Tần Hoài Dạ Vũ theo thi pháp hiện đại. Có bài thơ anh dùng những điệp ngữ, điệp từ lặp đi lặp lại  cuộn trào như ngọn sóng, có khi lắng dịu với giai điệu trầm buồn, phù hợp tâm trạng thể hiện của nhân vật trữ tình trong thơ. Từ cảm nhận cuộc sống đôi khi cảm xúc chợt đến và được bắt đầu bằng một từ, hay một câu có cấu tứ lạ  đủ hàm chứa những trải nghiệm cuộc sống, kiến thức, tài năng của nhà thơ để rồi tiếp tục sáng tạo, bồi đắp, để tạo ra một thi phẩm hoàn chỉnh. Một bài thơ xuất phát từ một cảm hứng có khi là “tức cảnh sinh tình”, nhưng được chắt lọc từ vốn sống và những kỷ niệm trong đời nhờ vật liệu kết cấu ngôn từ và cú pháp điêu luyện, để có bài thơ hay, có ý nghĩa sâu sắc, diễn đạt được nỗi lòng của chủ thể trữ tình.

Tần Hoài Dạ Vũ với bút pháp vừa hiện thực vừa lãng mạn. Thơ anh đậm chất trữ tình: trữ tình tâm tình, trữ tình phong cảnh, trữ tình thế sự và trữ tình công dân. Có khi tách bạch, có khi hòa quyện đan xen nhau, bổ sung cho nhau, để đạt được sứ mệnh chuyển tải cảm xúc đến với công chúng một cách hiệu quả nhất. Đặc biệt, bút pháp Tần Hoài Dạ Vũ khá điêu luyện khi xây dựng nhân vật trữ tình. Thi nhân bày tỏ tư tưởng tình cảm và thông qua tư tưởng tình cảm để phản ánh cuộc sống, chẳng cần miêu tả sự kiện, không kể tình tiết câu chuyện, cũng không miêu tả nhân vật, cảnh vật cụ thể, mà mượn cảnh vật để bày tỏ tình cảm, đã làm nên phong cách sáng tác thơ “tả cảnh ngụ tình” sâu sắc, cùng ý tứ chân thành nhằm giải  bày tâm sự.
Ngôn ngữ thơ Tần Hoài Dạ Vũlà ngôn ngữ đối thoại giữa hai người hoặc độc thoại. Cấu trúc thi thoại gồm đối thoại hoặc độc thoại để tạo nên thi ca.

Em từ giọt nắng
bước ra
Hay là từ cõi phong ba
lại về?
Hồn quê
mưa tạt bốn bề
Trái tim dâu bể
trôi về
nơi đâu…

(Bên cầu nhân duyên)

Thơ Tần Hoài Dạ Vũ phong phú với đủ thể loại: Thơ lục bát, lục bát biến thể; Thơ tứ ngôn, ngũ ngôn, thất ngôn, bát ngôn… đặc biệt, anh đã làm mới cho loại thơ văn xuôi (Poesie en prose):

 “Số phận khắc nghiệt là tặng vật của cuộc đời mà ta không thể khước từ. Như cây già đợi gió tôi lặng nhìn dòng sông rẽ vào một chân trời khác với cánh buồm quên lãng ruổi dong. Có bao giờ nỗi buồn không khiến ta nghĩ về quá khứ ?”

Ngôn ngữ trong thơ Tần Hoài Dạ Vũ điêu luyện, trau chuốt, nhưng vẫn gần gũi, giản dị, dễ hiểu. Tạo vật trong thơ anh cũng  đằm thắm, có tình và có hồn đi vào thơ, làm nên tứ thơ đẹp, sắc nét, tài hoa cả về ngôn ngữ thơ lẫn tâm trạng thể hiện. Qua ngòi bút phóng khoáng và lãng mạn vẫn khắc họa trong đó những đường nét của đời sống thực. Bằng thủ pháp ẩn dụ,  hoán dụ, đảo ngữ để đạt tới ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, sâu lắng dễ đi vào lòng người. Hãy nghe tác giả bộc bạch quan niệm của mình về thơ và nhất là thơ tình: “Làm thơ là phải luôn hiện tại hóa lại những gì đã sống“. Quả đúng vậy! Thơ là tiếng nói của con tim, là tiếng lòng của thi nhân. Vì vậy, “Nhà thơ là người phải đau đến hai lần nỗi đau, vui đến hai lần niềm vui…”. Thi nhân đau nỗi đau trần thế, nỗi niềm riêng và cả nỗi niềm chung. Phải chăng đó chính là sứ mệnh của thơ, nói riêng, và văn học nghệ thuật, nói chung. Biết là không có tình yêu vĩnh cữu mà chỉ có những giây phút vình cữu trong tình yêu và Tần Hoài Dạ Vũ đã ghi lại những phút giây vĩnh cữu của tình yêu để cả thi nhân lẫn độc giả tìm thấy sự đồng cảm trong những câu thơ, bài thơ còn mãi với thời gian.

Thơ tình nói chung là những cảm xúc mãnh liệt, nồng nàn của tình yêu đôi lứa. Ở thơ Tần Hoài Dạ Vũ có đủ những nồng nàn, đắm say và tha thiết của men tình, nhưng vẫn chứa chan nỗi buồn và day dứt khắc khoải. Nỗi buồn đọng lại trong thơ anh khiến  độc giả khát khao vươn tới tình yêu hạnh phúc. Thơ Tần Hoài Dạ Vũ đi vào lòng công chúng từ trước 1975… và công chúng hiện nay yêu thích thơ anh, nhiều người đã thuộc những câu thơ hay, bài thơ hay của anh, để có thể đọc ra khi có cùng tâm trạng. Thơ Tần Hoài Dạ Vũ đi vào lòng người, có lẽ bởi vì   thể hiện một góc nhìn tinh tế, tứ thơ đẹp, ý thơ ngọt ngào và lãng mạn, ngôn ngữ thơ được sử dụng gieo vần và ngắt nhịp khéo léo và biểu cảm. Vì thế, thơ Tần Hoài Dạ Vũ có sức lay động trong lòng đọc giả để rồi đọng lại tình yêu đời, yêu người, yêu quê hương, đất nước. Hồn thơ Tần Hoài Dạ Vũ dạt dào và tha thiết với cuộc sống, với tình yêu, với quê hương xứ sở… Toàn bộ các sáng tác của anh xuyên suốt một tinh thần nhân văn cao cả.

Tất cả đã làm nên tên tuổi của Tần Hoài Dạ Vũ.