Hùng Phan
Nhiều chuyên gia cho rằng, nói về sự nghiệp văn chương, nhất là thi ca, nhà thơ Thu Bồn là nhân vật hàng đầu của nền văn học cách mạng Việt Nam thế kỷ 20.
Việc nhà thơ Thu Bồn được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đã gây xúc động nhiều người. Nhiều chuyên gia cho rằng, nói về sự nghiệp văn chương, nhất là thi ca, nhà thơ Thu Bồn là nhân vật hàng đầu của nền văn học cách mạng Việt Nam thế kỷ 20.
Nhà thơ Thu Bồn.
Cánh chim qua đây thành con tuấn mã
Sống hết mình, yêu thương hết mình, sáng tạo hết mình, nhà thơ Thu Bồn đã có một cuộc đời và sự nghiệp đầy ý nghĩa. Ông như cánh chim bay qua lửa đạn thành con tuấn mã tung hoành ngang dọc khắp bầu trời Tổ quốc, để lại một sự nghiệp và nhân cách đáng ngưỡng mộ.
Nhà thơ Thu Bồn tên thật Hà Đức Trọng sinh ngày 1/12/1935 tại xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Từ năm 12 tuổi, ông đã trở thành thiếu sinh quân, lên đường tham gia kháng chiến. Thu Bồn là một trong 3 người còn sống sót sau chiến tranh của tiểu đội nhà văn quân đội 13 người được cử vào chiến trường chống Mỹ năm 1962. Tay súng tay bút, ông sáng tác không ngừng nghỉ, dù trên đường hành quân hay ngay trong chiến hào giữa những trận chiến. Nhà phê bình văn học Ngô Thảo và cũng là chiến hữu thân thiết của nhà thơ Thu Bồn nói: “Đi đâu trên đất nước này, chúng tôi cũng thấy có dấu chân Thu Bồn, nhất là vào những thời điểm khốc liệt nhất của chiến tranh để viết nên những tác phẩm thấm đẫm tình yêu quê hương, cuộc sống”.
Với sức sáng tạo mạnh mẽ, nhà thơ Thu Bồn đã có một gia tài đồ sộ với gần 25 đầu sách. Nổi bật về thơ và trường ca của ông có những tác phẩm: Bài ca chim chơrao (1962), Mặt đất không quên (1970), Quê hương mặt trời vàng (1975), Badan khát (1976), Campuchia hy vọng (1978), Người vắt sữa bầu trời (1985), Một trăm bài thơ tình nhờ em đặt tên (1992), Đánh đu cùng dâu bể (2002)… Về văn có thể kể đến: Chớp trắng (tiểu thuyết – 1970), Những đám mây màu cánh vạc (tiểu thuyết 2 tập – 1975), Em bé trong rừng thốt nốt (tập truyện ngắn – 1979), Đỉnh núi (tiểu thuyết – 1980), Vùng pháo sáng (tiểu thuyết – 1986), Cửa ngõ miền Tây (tiểu thuyết – 1986), Em bé vào hang cọp (tiểu thuyết 2 tập – 1986)…
Thu Bồn là người có nhiều đóng góp nhất trong tất cả các thể loại: thơ, trường ca, truyện ngắn, tiểu thuyết, tiểu luận và cả báo chí nữa, với một số tác phẩm lớn cả về lượng lẫn về chất. Trong đó, ông là một trong những người khai mở và đặt dấu ấn thành công đầu tiên về thể loại trường ca viết về chiến tranh chống Mỹ cứu nước và cũng là tác giả có nhiều trường ca nhất. Thu Bồn được nhận nhiều giải thưởng văn học từ địa phương đến trung ương và quốc tế. Thu Bồn cũng là một trong những nhà thơ có đóng góp nhiều nhất suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cũng như trong chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc; được Nhà nước tặng thưởng hơn 10 huân huy chương các loại.
Cháy hết mình với bạn bè, tình yêu
Ngoài văn, thơ Thu Bồn nổi tiếng và được ví như thác gào, như suối chảy bởi sức sống trong thơ. Tình yêu của ông cũng là một giai thoại trong mắt bạn bè, người quen. Thu Bồn thể hiện rất rõ sự say mê với những phụ nữ tạo cảm hứng cho ông và cũng sống hết mình với bạn bè vì vậy ông có nhiều người yêu và cũng có rất đông bạn bè. Ở đâu có Thu Bồn là ở đó có tiếng cười rộn rã, có sự tin yêu của tình bạn. Ngược lại, tình bạn cũng là sự tiếp sức rất lớn đối với ông. Với bạn bè, Thu Bồn lúc nào cũng hướng tới một cuộc sống giản đơn, không màng chức tước, hư danh. Cuộc sống và sự nghiệp Thu Bồn phong phú và điển hình đến độ nhà văn Nguyễn Khắc Phục đã dựa vào đó để xây dựng nhân vật chính trong tiểu thuyết nổi tiếng Học phí trả bằng máu.
So với các nhà thơ cùng thời, trường ca là thế mạnh và cũng là đóng góp lớn của Thu Bồn. Bài ca chim chơrao cùng nhiều trường ca khác của Thu Bồn đã đặt dấu son lên bầu trời thơ ca chống Mỹ lẫn đối với nền văn học hiện đại Việt Nam thế kỷ 20. Thu Bồn quan niệm rằng trường ca là một kiến trúc tổng hợp của thơ ca và cuộc chiến tranh giữ nước gian khổ và hào hùng của dân tộc chính là cái nôi, là nền tảng khai sinh ra trường ca.
Nhà thơ Thu Bồn cũng từng bật mí rằng có một nhân vật đi xuyên suốt trong mấy mươi trường ca của ông, mặc dù tên tuổi không hề xuất hiện ở một dòng nào: “Tôi thường gọi tên anh là người chạy trốn ra phía trước hoặc người an bình trong tiếng súng… và cuối cùng gọi anh là Che Guevara Việt Nam. Đó chính là vị tướng nhà văn Nguyễn Chí Trung, người mà cùng Thu Bồn, Thanh Giang là ba người còn sống sót của tiểu đội nhà văn 13 người”. Về sau, Nguyễn Chí Trung với tư cách trợ lý Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã sang thăm Cuba. Về nước, ông kể rằng trong phần kết thúc bài diễn văn của Tổng Bí thư có trích một đoạn trường ca như một lời tỏ bày tình cảm và để bạn hiểu đất nước ta hơn: Ngọn sóng qua đây thành lưỡi búa/ ngọn gió qua đây thành mũi lao/ cánh chim qua đây thành con tuấn mã/ tờ giấy qua đây thành trang sử đỏ/ quân thù nghe nói mặt xanh như tàu lá/ chân ngựa vấp chân người, ngựa ngã/… bè bạn qua đây con tàu nặng/ bè bạn qua đây con sóng lặng.
Đó là trích đoạn từ trường ca Campuchia hy vọng của Thu Bồn viết năm 1978, mà theo Nguyễn Chí Trung đây là tác phẩm có tính tiên tri về cuộc tiến quân vào Phnôm Pênh của bộ đội Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế, giúp bạn thoát khỏi nạn diệt chủng của chế độ Pol Pot, về sau được Thủ tướng Hun Sen đọc và đánh giá rất cao: Chúng tôi sẽ tiến về Phnôm Pênh/ như nước lũ tràn/ của cả mùa mưa loài người đương chịu đựng/ đền chùa hãy gióng lên tiếng trống/ đã giấu trong lòng đất lòng người/ tất cả hãy gióng lên.
Trường ca của nhà thơ Thu Bồn đã vượt biên giới Tổ quốc đến với nhiều dân tộc anh em ở châu Á – Phi – Mỹ Latinh.
H.P
Rút từ tập KÝ ỨC VÀ DẤU ẤN 40 NĂM HỘI NHÀ VĂN TP. HỒ CHÍ MINH
* Đôi nét về nhà thơ Thu Bồn:
Nhà thơ Thu Bồn tên khai sinh là Hà Đức Trọng, sinh tại xã Điện Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam, vào bộ đội năm mười một tuổi và là thiếu sinh quân ở đơn vị biệt động chiến đấu. Trong thời gian chiến tranh Việt Nam, ông làm phóng viên chiến trường Liên khu V sau đó về làm việc tại Tạp chí Văn nghệ quân đội, thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Thu Bồn là ủy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ miền Trung Trung Bộ và ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV. Ngoài bút danh đặt theo tên dòng sông Thu Bồn quê hương, ông còn có các bút danh khác là Hà Đức Trọng, Bờ Lốc.
Ngoài thơ, Thu Bồn còn viết tiểu thuyết, nhưng ông được biết đến nhiều với những trường ca, trong đó Bài ca chim Chơ Rao vẫn được coi là thành công có tính định hướng cho phong cách tiêu biểu của ông và “không những là tác phẩm từ miền Nam gửi ra khá sớm, mà còn là bản trường ca đầu tiên của văn học giải phóng” .Đây là khúc ca ca ngợi lòng yêu tự do, ý chí bất khuất của những con người Tây Nguyên trong khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ được giảng dạy ở chương trình giáo dục phổ thông của Việt Nam.
Tác phẩm:
Bài ca chim Chơ Rao (trường ca, 1962); Tre xanh (thơ, 1965); Mặt đất không quên (thơ, 1970); Chớp trắng (tiểu thuyết, 1970); Hòn đảo chân ren (tiểu thuyết, 1972); Dòng sông tuổi thơ (tiểu thuyết, 1973); Những đám mây màu cánh vạc (tiểu thuyết 2 tập, 1975); Badan khát (trường ca, 1976); Cămpuchia hy vọng (trường ca, 1978); Oran 76 ngọn (trường ca, 1979); Em bé trong rừng thốt nốt (truyện, 1979); Đỉnh núi (tiểu thuyết, 1980); Người vắt sữa bầu trời (trường ca, 1985); Thông điệp mùa xuân (trường ca, 1985); Mắt bồ câu và rừng phi tiễn (tiểu thuyết, 1986); Vùng pháo sáng (tiểu thuyết, 1986); Cửa ngõ miền Tây (tiểu thuyết, 1986); Em bé vào hang cọp (tiểu thuyết, 2 tập, 1986); Dưới tro (tập truyện ngắn, 1986); Một trăm bài thơ tình nhờ em đặt tên (thơ, 1992); Tôi nhớ mưa nguồn (thơ, 1999); Trường ca tuyển tập (1999); Tuyển thơ Thu Bồn (2015)…
Giải thưởng:
– Giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu;
– Giải thưởng văn học quốc tế Lotus của Hội Nhà văn Á Phi (1973);
– Giải thưởng báo Hà Nội Mới (1969);
– Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001;
– Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2017 cho các tác phẩm: Các tiểu thuyết Chớp trắng, Vùng pháo sáng và tập truyện ngắn Dưới tro.