Văn chương và lòng hiếu sinh

61

TS. Nguyễn Thanh Tâm

(Vanchuongphuongnam.vn) – Đây đó, có những ý kiến cho rằng, ở Việt Nam chưa có nhà văn nào thực sự tuyên bố mình sẽ viết văn chương về sinh thái. Tuy nhiên, lại có thể thấy và điểm ra không ít những tác phẩm ẩn chứa mạch ngầm sinh thái. Từ Nguyễn Huy Thiệp (Chuyện ông Móng, Muối của rừng) đến Y Ban (Cẩm cù), Đỗ Minh Tuấn (Thần thánh và bươm bướm), Nguyễn Quang Thiều (Kẻ ám sát cánh đồng), Nguyễn Ngọc Tư (Cánh đồng bất tận), Nguyễn Thế Hùng (Họ vẫn chưa về)…

Nhà văn Nguyễn Văn Học

Những năm gần đây, cái tên Nguyễn Văn Học được biết đến với những tác phẩm viết về thân phận con người và cảnh quan cuộc sống. Trong những tác phẩm của anh, nổi lên mảng đề tài về môi trường sinh thái (Mình ơi anh cưới dòng sông nhé, Nhạc cây, Linh điểu).

Văn chương nghệ thuật là một phần của văn hóa, kiến tạo nên giá trị người trong tương quan với môi trường và lịch sử. Xét đến cùng, điều làm nên sự khác biệt của con người so với phần còn lại của thế giới chính là phẩm tính người. Phẩm tính ấy chỉ có thể được hình thành và phát triển dựa trên lòng hiếu sinh. Bởi vậy, như một thành tố của văn hóa, văn chương phải xuất phát từ lòng hiếu sinh để đến với nhân sinh và rộng hơn là đến với thế giới – nơi con người góp mặt như là một thành viên của nó.

Chúng ta không ngạc nhiên khi văn học nghệ thuật và các ngành khoa học dần chú ý nhiều hơn đến những tiếng nói từ tự nhiên, diễn giải tự nhiên và tôn trọng tự nhiên. Bởi lẽ, tự nhiên chính là môi trường sống, là ngôi nhà chung của tất thảy. Với những gì đang diễn ra, thực tại cảnh báo những tác động theo hướng tiêu cực từ sự phát triển của xã hội loài người đến ngôi nhà chung của thế giới. Văn chương từ trong bản thể của mình cất lời về tình trạng ấy, để tham dự và hòa giải, để vẫy gọi và kiến tạo thế giới cộng sinh hòa hợp. Xuất phát từ lòng hiếu sinh, xem văn chương như là một cách để thức tỉnh con người, Nguyễn Văn Học có chủ ý xây dựng một tiểu thuyết về sinh thái dựa trên cuộc đối đầu giữa loài chim cùng những người bảo vệ tự nhiên với những thế lực đang tâm tàn phá, triệt hạ, hủy diệt các loài dã điểu. Có khá nhiều luận đề liên quan đến môi trường được Nguyễn Văn Học xây dựng, như là những trụ cột của diễn giải trong tiểu thuyết Linh điểu: đời sống tự nhiên của các loài dã điểu; sự tàn sát của con người đối với tự nhiên; hậu quả của việc môi trường sống bị đầu độc đến hình hài, thân phận con người; ý thức bảo vệ sinh thái; sự tuyệt vọng (có cánh mà không bay được – hình tượng Diệp Vân). Các trụ cột này giống như những vệ tinh xoay quanh hạt nhân là cuộc đời của Diệp Vân và đời sống luôn bị đe dọa của loài cò trong khu vườn tự nhiên.

Bìa tiểu thuyết “Linh điểu”, NXB Dân Trí 2020

Diệp Vân là một cô gái có xuất thân khá đặc biệt, từ việc cô được sinh ra, bị bỏ rơi (có chủ ý), gần gũi yêu thương các loài dã điểu, có khả năng trò chuyện hay thấu hiểu các loài động vật, từ sau vai cô mọc lên đôi cánh của loài chim, sự xua đuổi truy bắt của kẻ xấu, ước mơ về môi trường hòa hợp giữa con người và tự nhiên, nỗ lực bay lên những bất lực, cái chết – sự hóa thân trong lửa… đã quy tụ mọi ý đồ nghệ thuật của tác giả. Sự sinh ra và bị bỏ rơi của Diệp Vân (dù có chủ đích người mẹ khốn khổ) đã ngầm nói lên thân phận bi đát của con người, thậm chí là muôn loài trong tình thế may rủi, bất trắc. Vốn dĩ, đây là một mệnh đề triết học, gắn với hoàn cảnh không được lựa chọn của con người khi sinh ra, khi bị đẩy vào cuộc sống. Diệp Vân cũng như thế. May mắn là cô được gia đình cô giáo Diệp Chi cưu mang. Thế nhưng, định mệnh của một biểu tượng đã đặt Diệp Vân vào các tình huống khác để làm nổi lên ý hướng chủ đạo của tác giả. Diệp Vân mang cảm quan đặc biệt đối với động vật. Đây là điều giới nghiên cứu sinh thái nhân văn đã cảnh báo. Con người chỉ có thể là con người khi nó tồn tại bên cạnh những loài vật khác. Con người sẽ không thể nhận ra mình nếu mất đi quy chiếu từ những đối thể khác từ môi trường sống. Và, có một sự thật là, dù có rất nhiều năng lực và ngày càng hoàn thiện, nhưng con người lại thiếu đi năng lực trò chuyện và thấu hiểu loài vật (John Berger). Diệp Vân có thể nghe được tâm sự của các loài dã điểu, hiểu được câu chuyện của muông thú xung quanh, có lẽ là một nỗ lực khắc phục sự thiếu khuyết của con người. Nguyên thủy, động vật hay cây cối có thể là những Tô-tem, ẩn chứa bí mật hay ý niệm siêu nhiên. Tuy nhiên, đời sống thế tục đã biến những đại biểu thiêng liêng ấy thành vật liệu phục vụ cho nhu cầu giải trí (xiếc, thú cưng, sở thú), thương mại, ẩm thực của con người. Như thế, toàn bộ khía cạnh sinh thái của loài vật đã bị loài người tước đoạt, để nó chỉ còn đơn giản là một thứ vật liệu. Diệp Vân có được sự cảm thông với loài vật, trên vai mọc ra đôi cánh của loài chim, đấy là hình tượng cộng thông ý niệm về nguồn gốc mà Nguyễn Văn Học gửi vào trong nhân vật. Bởi thế, Diệp Vân sẽ mang giữ nguồn năng lượng thiêng liêng, kết nối với một thế giới cao cả khác đến từ những giấc mơ. Mặt khác, có thể xem đôi cánh của Diệp Vân như là một biến dị của giống loài, khi đặt trong môi trường sống có nhiều hoàn cảnh tương đồng. Sự đột biến của nhiều nhân vật trong tiểu thuyết được lí giải bằng tác động của môi trường bị đầu độc bởi thuốc trừ sâu, hóa chất ngấm trong lòng đất, trong nguồn nước. Đó là cái giá phải trả hay nỗi khổ đau mà con người phải mang chịu khi ngược đãi tự nhiên.

Hãy nhìn cách con người tiếp cận loài vật để có cách tiếp cận và đánh giá đối với con người. Những mục đích giải trí, thương mại (ẩm thực, du lịch, buôn bán) dựa trên khả năng huấn luyện hay thói quen săn bắt, tàn sát động vật của con người sự thực lại ẩn ngầm một lời cảnh báo về nhân tính và các nguy cơ hiểm họa. Sự thực là, ngay cả các loài thú trong vườn bách thú, những con thú cưng được chăm bẵm chiều chuộng tại nhà, những con vật nhảy nhót làm trò trong rạp xiếc…không phải là tự nhiên, đó là một sự phóng chiếu tâm tính, thói quen, sở thích, nhu cầu của con người thông qua loài vật. Đến khi nào một con người thấy mình lạc lõng trong vườn thú và các con vật đang quan sát mình, khi ấy anh ta mới thấu hiểu đời sống vườn thú. Đến khi nào con người cảm thấy chỉ có thể chiêm ngưỡng các loài động vật từ trong bảo tàng anh ta mới thấm thía sự cô đơn, vắng lặng của xung quanh? Con người sẽ mất đi quy chiếu về mình khi không còn những loài vật khác. Diệp Vân bị xua đuổi, bị đe dọa; các loài dã điểu đang từng ngày bị rình rập, bị săn bắn làm mồi nhậu cho các quán đặc sản; không gian tự nhiên bị tàn phá; những cánh đồng, dòng sông hay lòng đất đang bị bức tử, đó là dấu hiệu khởi đầu cho một tương lai u ám của loài người. Dường như, là một sự bất lực, khi tiểu thuyết của Nguyễn Văn Học đưa những lực lượng bảo vệ tự nhiên vào thế yếu. Ở phía kia, những kẻ mang dã tâm hủy hoại môi trường, tàn sát muôn thú lại dữ dằn, táo tợn hơn. Đã có người ngã xuống vì không gian sinh tồn của loài cò (bà ngoại của Diệp Vân), những con người sinh ra dị dạng, hỏa hoạn bùng lên khốc liệt, sự hóa thân của Diệp Vân…có thể ngăn lại những âm mưu tàn hủy? Mọi thứ cho đến cuối cùng vẫn như một niềm hi vọng.

Một câu hỏi được đặt ra ở cuối tiểu thuyết: “…một mai không còn loài chim nào trên trái đất, con người sẽ ra sao?”. Câu hỏi ấy có thể mở rộng ra, nếu một mai không còn loài vật, tự nhiên bị tàn phá hoàn toàn, con người sẽ ra sao? Tương lai mang hình hài tận thế được gợi lên từ tiếng kêu cứu của chim muông, vạn vật, của những cánh rừng, bầu trời, dòng sông và biển cả. Minh triết của tự nhiên là minh triết của sự sống. Bởi vậy, cứu lấy tự nhiên là cứu lấy sự sống. Linh điểu kết thúc bằng giấc mơ của chim cu gáy về một thế giới được cứu rỗi, nơi muôn loài sống hòa hợp với nhau (Khải huyền). Trong giấc mơ, nàng Diệp Vân tung đôi cánh trắng tinh tuyền, hót như loài chim rộn rã. Hình tượng ấy đã kết tinh bản chất của sự gắn kết con người với tự nhiên, vốn đã từng có từ thơ ấu loài người, nhưng dần biến mất khi con người rời bỏ ấu thơ của mình (chúng ta nhớ rằng, trẻ con gọi mọi thứ đồ chơi hay loài vật là bạn bè. Khi còn nhỏ, đứa trẻ không khác một con thú là mấy – John Berger).

Xuất phát từ lòng hiếu sinh, từ nỗi ám ảnh thường trực về tự nhiên đang bị hủy hoại, Linh điểu là một cuốn tiểu thuyết hướng sự chú ý vào vấn đề bảo vệ môi trường, bảo tồn các loài dã điểu. Tính luận đề của tiểu thuyết như thế là khá rõ. Kết thúc trong một giấc mơ có phần không tưởng, Linh điểu giữ lại nguyên vẹn lời chất vấn với chúng ta về cung cách ứng xử và tiếp cận với tự nhiên. Là một thành viên của tự nhiên, con người cần phải xem trách nhiệm của mình với tự nhiên như một “hành vi đạo đức” (Richard Keridge). Để có thể thực hiện trách nhiệm đó, để tránh rơi vào những mơ hồ hoặc ảo tưởng về sinh thái, điều căn bản nhất chính là phát huy đức hiếu sinh ở mỗi con người.

Linh điểu của Nguyễn Văn Học, trong ý nghĩa đó, là một lời vẫy gọi xây dựng cộng đồng hiếu sinh, vì một thế giới hài hòa. Viễn cảnh của khải huyền hiện ra trong giấc mơ của loài chim, quả là niềm ước ao lớn. Tuy nhiên, như một bí tích, trước khải huyền bao giờ cũng là tai họa. Con người rồi sẽ ra sao?

TS.N.T.T