(Vanchuongphuongnam.vn) – Levitan (1860-1900) tên đầy đủ là Isaac Ilyich Levitan, người Nga, là họa sĩ không chỉ của nước Nga mà cả thế giới vào nửa sau thế kỷ thứ 19. Vốn là học sinh năng khiếu rất giỏi mỹ thuật, ông tốt nghiệp trường Hội họa, Điêu khắc và Kiến trúc Moskva (1885) và được xem là họa sĩ thiên tài về vẽ tranh phong cảnh.
Họa sĩ Levitan.
Những tuyệt tác để đời của Levitan như Mùa thu vàng (1895), Rừng bạch dương (1885-1889), Đường Vladimir (1892)… mang dấu ấn rõ nét của trường phái hiện thực (realism) sở hữu những nét độc đáo về kỹ thuật và tinh tế về phong cách, sắc màu, khiến người xem tranh không thể nhầm lẫn với bất cứ tranh phong cảnh của họa sĩ nào khác cùng khuynh hướng. Ông được bầu vào Hàn Lâm viện Nghệ thuật Nga (1897) và là bạn của nhà văn Nga A. P. Chekhov (1860-1904).
Levitan mở mắt chào đời ngày 18 tháng 8 năm 1860 trong một gia đình trung lưu trí thức ở thị trấn Kibarty, tỉnh Kovno (nay là Kaunasa, Litva) của nước Nga lạnh giá mênh mông với rừng bạch dương sương trắng nắng tràn. Năm cậu con út Levitan trong gia đình lên 10, người cha giáo viên quyết định chuyển cả gia đình về sống tại Moskva nhằm tạo điều kiện học tập để con cái có được tương lai về sau. Gia đình không dư dả lại không có quan hệ thân thiết hay bà con quen thuộc tại thành phố lớn, cả nhà phải chật vật nương náu trong một căn hộ nhỏ hẹp nằm của một tòa nhà to lớn với những bữa ăn đạm bạc và những bộ quần áo sờn cũ chắp vá. Nhưng bù lại những thiếu thốn của gia đình là niềm vui trông thấy thành tích rạng rỡ của con cái trong học tập và cơ hội thuận tiện được trau dồi thêm kiến thức.
Mỗi sáng sớm, khi cha đi làm, các anh chị đến trường, ở nhà chỉ còn mẹ và cậu con út Levitan. Cậu bé trèo lên bậc cửa sổ, ngồi chăm chú mải mê ngắm nhìn không biết chán những mái nhà san sát nhau, chập chùng đây đó bên những ống khói phủ đầy tuyết lạnh, với ánh bình minh rực rỡ từ chân trời xa tít tắp cùng ánh sáng của ngày tàn bàng bạc tím dần trước khi chìm vào biển đêm mịt mùng. Không gian thủ đô Moskva hoa lệ trở nên huyền ảo và đầy vẻ kỳ bí như những lâu đài trong truyện cổ mà Levitan thường nghe mẹ kể. Chính từ khung cửa sổ nhỏ bé của căn hộ chật hẹp kia, cậu bé Levitan đã đến và gắn kết với thiên nhiên suốt cả cuộc đời mình.
Mới mười ba tuổi, năm 1873, Levitan thi đỗ vào trường Hội họa, Điêu khắc và Kiến trúc Moskva, nơi người anh ruột Adolf của cậu bé cũng đã theo học trước hai năm. Ở trường học, Levitan may mắn được các họa sĩ phong cảnh nổi tiếng Nga lúc bấy giờ là Savrasov, Perov và Polenov hướng dẫn. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn nhưng học giỏi, Levitan bắt đầu nhận được học bổng của nhà trường. Thành tích học tập của hai anh em vẫn luôn là niềm tự hào cho gia đình nhưng nổi trội hơn vẫn là cậu em. Sang năm học 1874-1875, Levitan tiếp tục được hội đồng nhà trường thưởng một hộp màu, cùng bút cọ vẽ do năng khiếu đặc biệt về hội họa. Niềm vui rạng rỡ của cha mẹ và các anh chị làm ấm áp gia đình chưa được bao lâu thì cuối năm học, mẹ Levitan qua đời do bệnh suy nhược cơ thể. Mất đi nguồn an ủi tinh thần ở người mẹ hiền, cha lại kiệt sức không còn đi dạy học cộng thêm tuổi cao sức yếu, bị bệnh thương hàn mất đi hai năm sau đó khiến cho đứa con ngoan, hiếu thảo và học giỏi Levitan đôi lúc trở nên ngớ ngẩn vô hồn.
Gia đình hai chị sống chật vật, người anh trai lại ngày càng xa lánh Levitan vì những thành tích học tập xuất sắc của đứa em trai. Không còn nơi nương tựa, Levitan buồn cho thân phận, âm thầm bỏ nhà ra đi, chịu sống trong cảnh nghèo túng. Thường khi Levitan phải nhịn đói hoặc xin ngủ lại ở nhà để xe, có khi trong xưởng họa nhà trường để tiếp tục việc học. Do cuộc sống quá cơ cực thiếu thốn và học tập vất vả, sức khỏe và tinh thần bắt đầu giảm sút. Tuy nhiên, thời gian mong đợi cũng đã đến.
Mùa xuân năm 1977, trong một cuộc triển lãm lưu động tại Moskva có kèm theo cuộc triển lãm của học sinh trong đó có Levitan. Hai bức tranh “Mùa thu” và “Cái sân bỏ hoang” của Levitan, được giới thưởng ngoạn nghệ thuật đánh giá cao và các nhà phê bình nồng nhiệt viết bài khen ngợi tác giả trên tạp chí mỹ thuật. Khi ấy Levitan mới 17 tuổi.
Bức họa “Thu vàng” của Levitan.
Ở hai bức tranh phong cảnh này, với một năng khiếu mỹ thuật sẵn có, chàng họa sĩ trẻ Levitan đã mô tả bằng cảm xúc cực kỳ tinh tế những đường nét và sắc màu từ ánh sáng, những căn nhà gỗ đến rừng cây, phiến lá thật tuyệt vời. Nét bình dị, hồn hậu của thiên nhiên tác giả thể hiện trong tranh đã âm thầm nói lên vẻ đẹp của cuộc sống con người mà những ai không có tình yêu thiên nhiên sâu đậm ắt không chút nào dễ dàng nhận ra.
Ngưỡng mộ tài năng, công chúng mỹ thuật đã gọi chàng họa sĩ tài hoa này là “Ngài Levitan”. Phấn khởi với thành quả đạt được, tiếp tục vươn lên bằng ý chí và nghị lực phi thường, cuối năm 1877, Levitan được cấp học bổng của nhà trường.
Dù cuộc sống khổ cực, đói kém khiến Levitan xa lánh với mọi người chung quanh nhưng càng làm cho chàng gần gũi với thiên nhiên và làng quê nước Nga. Levitan thường ẩn mình trong những cánh rừng thưa hay ngồi vẽ một mình trên thuyền. Trong nỗi cô đơn của thân phận và không gian mênh mông bát ngát của đại ngàn, Levitan có cơ hội cảm nhận sâu sắc được hoàn cảnh khắc nghiệt những con người cùng khổ đè nặng lên từng nóc nhà nhỏ ở làng quê Nga dưới chế độ chuyên chế trong cảnh mùa đông giá buốt. Bức tranh “Làng quê mùa đông” (1877-1878) đã thể hiện rõ nét trong nội dung những nỗi niềm đó.
Trong lần trưng bày tác phẩm hội họa lần 2 do nhà trường tổ chức, Levitan tham gia với bức tranh lụa “Một ngày mùa thu”. Họa phẩm đưa ta đến một công viên hiu quạnh một ngày mùa thu với rừng lá phong ngả vàng, tô điểm và làm nổi bật lên con đường nhỏ vắng vẻ, đơn độc đi trên con đường ấy là một người vẻ mặt buồn rười rượi, xộc xệch mang bộ váy dài đen cũ bạc màu. Nhà sưu tầm tranh nổi tiếng Châu Âu Tretyakov để vào mắt xanh, đã mua bức tranh ấy với giá 100 rúp, làm cho Levitan vô cùng sung sướng. Không chỉ trong trường mà cả giới nghệ thuật trong phạm vi nước Nga đã bắt đầu chú ý đến người học sinh họa sĩ trẻ tuổi tài hoa Levitan. Có được uy tín, Levitan dễ tìm ra chỗ dạy vẽ cho con cái những gia đình khá giả khiến cuộc đời anh đỡ phần đói rét. Nhưng sau vụ Nga hoàng Aleksandr II (1818 – 1881) bị mưu sát vào thán 05 năm 1879, hàng loạt người Do Thái bị trục xuất ra khỏi các thành phố lớn của đế quốc Nga, gia đình Levitan bị buộc phải chuyển đến vùng ngoại ô Saltykovka. Nhưng nhờ vào tài năng nhiều người biết đến, Levitan được chính quyền cho phép quay trở lại Moskva dưới áp lực của những người hâm mộ nghệ thuật.
Bức họa “Sắc thu”.
Trong những năm từ thập niên 1880, Levitan vẽ hàng loạt bức tranh về phong cảnh làng quê nước Nga từ vùng ngoại ô Moskva: “Làng quê”, “Liễu rủ quanh nhà”, “Bờ sông”, “Hoa anh đào”, “Làng ven sông”… Dù không hề có bóng dáng người,nhưng tất cả những bức tranh đó ngụ ý mô tả cuộc sống, tâm trạng của con người sống trong những làng quê ấy. Riêng bức tranh “Ngày thu Sokolniki” của Levitan cũng được nhà sưu tập tranh nổi tiếng của nước Nga là P.M. Tretyakov mua lại. Cũng như danh họa Picasso mới ở lứa tuổi 19 – 20, vượt lên trên mọi nghiệt ngã của cuộc sống.
Levitan bằng cảm xúc cực kỳ nhạy bén và nghệ thuật tinh tế đã bắt đầu thể hiện một độ chín thực sự, đầy trải nghiệm ở sự lột tả cuộc sống đời thường trong lao động và tình cảm con người qua những bức tranh phong cảnh thiên nhiên trữ tình đáng được coi là tuyệt tác.
Trong cuộc triển lãm Mỹ thuật công nghiệp hoành tráng năm 1882 tại nước Nga, cả đoàn người triền miên nối đuôi nhau vào xem. Họ đã trầm ngâm rất lâu trước họa phẩm “Những người kéo thuyền trên sông Volga” của họa sĩ Rêpin, một bức tranh mà chủ đề như gắn liền hơi thở của tác giả với cuộc sống của nhân dân lao động. Chính tác phẩm của họa sĩ Repin đã tác động và thôi thúc chàng thanh niên Levitan hãy đến với sông Volga để ngộ ra cho được vẻ đẹp một con sông hùng vĩ, có sức sống mãnh liệt và ngập tràn hứa hẹn. Mùa xuân năm 1884, Levitan tham gia cuộc triển lãm của nhóm họa sĩ lưu động và về sau đã trở thành viên chính thức của nhóm này cùng với nhiều họa sĩ nổi tiếng khác. Năm gần cuối khóa học sắp kết thúc, học sinh của xưởng dạy vẽ phong cảnh gấp rút hoàn thành tác phẩm tốt nghiệp để chuẩn bị ra trường. Chủ đề bức tranh tốt nghiệp của Levitan mô tả một cánh đồng mênh mông trong mùa gặt dưới bầu trời âm u dày đặc những đám mây đen như tiềm ẩn một dấu hiệu báo trước điều không tốt lành.
Quả thực điều không hay đã đến với Levitan. Trong thời điểm thẩm định bức tranh tốt nghiệp của anh đã thiếu vắng đi những người thầy thân tín. Người thầy ân cần tận tụy Perov của anh đã mất trước đó 2 năm. Còn thầy Savrasov, người đánh giá cao bức tranh tốt nghiệp của anh xứng đáng với “Huy chương bạc lớn” thì đang tiều tụy chìm dần trong căn bệnh nghiện ngập. Hội đồng nhà trường không thể công nhận ý kiến của một người bị sa thải như Savrasov. Tình huống thật đắng cay, một học sinh năng khiếu giỏi giang như Levitan đành chấp nhận ra trường với một bằng tốt nghiệp loại thường !
Do vậy, dù tốt nghiệp đàng hoàng vào năm 1885, nhưng sống giữa thành phố lớn Moskva với cảnh nhà phố tráng lệ ấm áp, lấp lánh ánh đèn điện ngày đêm, Levitan vẫn là người cô đơn bữa no bữa đói trong bộ quần áo cũ bạc màu không lành lặn. Nhưng mỗi lần đứng trước chiếc giá vẽ như người bạn đường thân thiết, khi nhận ra mùi thơm ngây ngây quen thuộc tỏa ra từ những tuýp màu xinh xắn, Levitan lại cảm thấy yêu đời, không ngừng say mê sáng tác, và khám phá thêm. Những sắc màu sáng tạo, đường nét mới lạ cho từng phiến mây mắt lá, đến trảng cỏ triền sông trong những bức tranh phong cảnh sở trường của mình.
Trong thời gian còn theo học ở trường hội họa, Levitan kết bạn với nhiều nghệ sĩ tạo hình, kiến trúc sư. Họa sĩ N.P. Chekhov, bào huynh của nhà văn nổi tiếng A. P. Chekhov – nhà văn sau này đã trở thành người bạn thân thiết, an ủi, sẻ chia với Levitan trong thời gian anh bị khủng hoảng tinh thần. Cuối năm 1885, đang ở tại gia đình nhà văn Chekhov, không khí bạn bè làm vơi đi bớt phần nào nỗi buồn về người chị ruột kém may có người chồng nghiện ngập và những đứa con khổ sở của họ. Nhưng căn bệnh trầm cảm mắc phải từ ngày mẹ mất có lúc làm Levitan cảm thấy lạc lõng bơ vơ trong cuộc đời. Khi tinh thần hồi phục, thường ngày Levitan hay cùng Chekhov vào rừng hái nấm. Maria, em gái nhà văn Chekhov đôi khi cũng xin tham dự vào những buổi đi này.
Điều làm cô gái Maria nhí nhảnh rất thích thú là được đi vẽ cùng với Levitan. Cô có năng khiếu hội họa, có dịp được ngồi hàng giờ bên Levitan để xem anh xây dựng bố cục, phối màu, xem cách anh cầm bút và hoa tay ký họa bằng mực như phượng múa rồng bay. Xem ra, chàng họa sĩ có cảm tình với người em gái yêu nghệ thuật của bạn mình. Sau một lần vẽ chân dung cho Chekhov, Levitan đánh bạo, sôi nổi tỏ tình với Maria. Nhưng Levitan thất vọng, lòng thêm nặng mối u hoài vì mối tình chân thành của anh không được Maria đáp lại. Bởi lẽ một lẽ không ngờ, từ trước tới nay, cô gái xinh đẹp hồn nhiên chỉ coi Levitan như một người anh. Thêm nữa Chekhov cũng nhận thấy cô em gái bé bỏng ngây thơ của mình không hợp với tính cách phức tạp như Levitan.
Dù rất thương mến bạn, trân trọng tài năng của bạn, Chekhov vẫn muốn tránh cho em gái mình những đau khổ có thể gặp phải sau này trong cuộc sống lứa đôi với Levitan. Thật đau buồn cho nhà nghệ sĩ tài hoa vì đây là lần tỏ tình đầu tiên mà cũng là lần sau cùng với Levitan. Từ làng quê trở lại Moskva để nguôi ngoai chuyện tình buồn nhưng Levitan lại bị sốt viêm niêm mạc, phải nằm liệt giường, mặt mày hốc hác, cũng không còn sức để đọc thư và viết thư cho bạn bè.
Cuối năm 1885, quên đi tấm thân bệnh hoạn yếu ớt và cái giá lạnh ghê người của mùa đông Moskva, ánh nắng long lanh và màu xanh cây cỏ trở nên quyến rũ, thôi thúc anh cầm cọ. Biển Crưm viền quanh những vách đá chông chênh, trên đó những chiếc thuyền đang lướt sóng, không xa lắm là lớp lớp mái ngói đỏ tươi thắm nằm dọc theo bờ biển, dưới bầu trời xanh thẳm… Tất cả cảnh trí hữu tình thi vị đã được Levitan thể hiện trong 50 bức phác thảo của mình.
Chekhov vội vã báo tin vui cho một người bạn: “tài năng của anh ấy phát triển không phải qua từng ngày mà là từng giờ!”.
Người ta còn nhớ lại, khi vừa ra trường một năm, Levitan được chọn vào làm việc ngay tại xưởng vẽ của họa sĩ Savrasop – một giáo sư họa sĩ giàu kinh nghiệm và óc sáng tạo, luôn yêu thương học trò, đặc biệt có lòng yêu thiên nhiên mãnh liệt. Nhờ cơ hội thuận lợi, Levitan cảm thấy vơi bớt đi mặc cảm phiền muộn cho thân phận và ngày càng nỗ lực phát huy năng khiếu theo hơi nóng ngọn lửa đam mê nghệ thuật đang cháy bỏng trong lòng. Ta cũng nên nhớ lại, đây là thời kỳ sáng tạo phong phú nhất của các họa sĩ lưu động mà Levitan là một thành viên. Những bức tranh của Levitan trong giai đoạn này, anh đã vẽ bằng những nhát cọ, màu sắc trí tuệ và tất cả năng lượng của một trái tim thông cảm với một đất nước Nga thống khổ lúc bấy giờ.
Trong cuộc triển lãm tranh lưu động lần thứ 12, Levitan đã hăng hái góp mặt 4 họa phẩm, nổi trội nhất là bức tranh “Buổi chiều trên cánh đồng đã cày”. Với hình ảnh của người nông dân dáng dấp bé nhỏ, đang cúi gập người một cách khốn khổ để điều khiển chiếc lưỡi cày nặng nề vô tri giác trước một không gian rộng lớn là trời và đất. Người xem tranh không khó nhận ra ý nghĩa tố cáo sự ngược đãi toát lên từ họa phẩm qua sự cảm thông của tác giả dù vẫn giữ được sự dè dặt trong bút pháp. Với bức “Chiếc cầu nhỏ”, tác giả, với lòng nhân ái bao la, cho thấy sau chiếc cầu nhỏ bé kia là những căn nhà gỗ không mấy khang trang vốn là nơi trú ngụ của những cuộc đời lầm than đói khổ, bế tắc đáng thương hại vô cùng. Bức tranh “Hồ đầy cỏ 1887” vẽ ra trước mắt ta cảnh trên mặt hồ phẳng lặng, yên ả là một lớp bèo dày đặc. Levitan mô tả ánh nắng mặt trời màu xanh trong, vàng ối, vạch lên lớp bèo hoang dại khiến hồ như sâu hơn, trên mặt hồ nước lung linh nổi bật bóng những cây tùng, cây bách. “Ngày nắng – 1884” là bức tranh mà họa sĩ đã khéo cho ta cái ấn tượng về một khu rừng như hun hút sâu thẳm hơn và cũng mênh mông hùng vĩ hơn.
“Mùa thu vàng nước Nga”.
Mùa xuân năm 1887, dòng sông Volga vốn đã in đậm trong tâm trí Levitan trong những năm tháng tuổi thơ cùng với những bức tranh của các thầy Savrasov và Repin đã giục giã Levitan đến với sông Volga. Anh trở lại đây vào mùa nước lũ chưa rút. Nước mênh mông tràn ngập các cánh rừng ven sông. Một mùa xuân ảm đạm đã hòa với tâm trạng cô đơn, nặng nề của họa sĩ. Nhưng ngày ngày, Levitan lại mang bản phác thảo ra bờ sông ngồi vẽ, vẽ miệt mài, đến khi sắp mưa hoặc chiều muộn mới về nhà. Anh nỗ lực chọn từng đường nét, gam màu để đưa hình ảnh của sông Volga vào mùa xuân hiện ra trên bản vẽ của mình. Nhưng “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ’. Người ta thấy, sau những sắc màu rực rỡ trong tranh vẽ màu tro xám xịt tràn ngập lên các phác thảo vẽ vào mùa xuân đầu tiên ở Volga. Họa sĩ đã xây dựng bức tranh “Hoàng hôn trên sông Volga – 1888”. Một hoàng hôn đầy suy ngẫm và chan chứa u hoài với những tia nắng yếu ớt cuối cùng của một ngày đang chìm dần vào những đám mây đen dầy đặc.
Rồi ta lại bắt gặp một “Sông Volga 1887-1888” với gam màu sáng hơn, nhưng hình ảnh trong bố cục vẫn gợi lên một tâm trạng buồn man mác. Bên cạnh những con thuyền chờ đợi trên dòng nước in rõ cảnh vật bên kia bờ, là một con thuyền nhỏ đơn độc giữa dòng, một sông Volga trầm tư sau những giờ phút sôi động. Bức tranh “Sau cơn mưa – 1889” minh họa phong cảnh một thị trấn bên bờ sông Volga có thuyền và xà-lan đậu bên cạnh những ngôi nhà, xa xa cắt nét lên không gian xanh thẳm là những gác chuông nhà thờ. Cảnh vật chủ đạo bằng sự kết hợp giữa nước sông trong vắt với bầu trời quang đảng biêng biếc, không khí mát rượi trong lành sau một cơn mưa nặng hạt.
Đến những tuyệt tác được coi là những họa phẩm để đời của Levitan làm cho tên tuổi họa sĩ càng thêm rạng rỡ. Phải kể đến: “Rừng bạch dương – 1885-1889”. Ở bức tranh nổi tiếng này, qua sự mô tả cảnh rừng bạch dương mênh mông chan hoà ánh nắng thủy tinh, Levitan đã thể hiện một kiến thức vững vàng về hình khối và bản lĩnh chủ động đường nét rất trí tuệ. Kèm theo nữa là nghệ thuật sử dụng màu sắc tinh tế trong sự diễn tả ánh sáng rất nên thơ và biểu cảm không khác gì những danh họa trong nhóm ấn tượng: Claude Monet (1840-1926), Auguste Renoir (1841-1919), Édouard Manet (1832-1883) Camille Pissaro (1830-1903)… Các nhà phê bình mỹ thuật tại Moskva đặc biệt chú ý đến những bức tranh vẽ sông Volga của Levitan. Chính màu sắc đặc thù, cảm xúc tinh tế như tiềm ẩn nỗi trắc trở, đắng cay thể hiện trong tranh đã mang lại vinh quang cho Levitan.
Năm 1897, Levitan được bầu vào Viện Hàn lâm Nghệ thuật Nga và ngay năm sau, họa sĩ trở thành người phụ trách xưởng tranh phong cảnh tại trường học cũ của mình. Từ ngày sức khỏe trở nên bệ rạc và tinh thần suy sụp, Levitan thường dưỡng bệnh tại nhà Chekhov và có lần không tự chủ được đã dùng súng tự tử nhưng không chết.
Từ cuối năm 1889, Levitan có cơ hội đi Pháp và Italia. Sau khi đi tham quan một vài địa điểm văn hóa nổi tiếng ở Paris – kinh đô nghệ thuật thế giới, anh quay sang nghỉ ngơi tại Italia vào mùa xuân. Tại đây, sự hấp dẫn của những ngôi nhà cổ kính đầy dấu ấn Levitan cảm hứng khai sinh ra nhiều phác thảo “Mùa xuân ở Italia”, thể hiện một sự thanh bình tĩnh tại vô ưu. Khoảnh khắc dừng chân tại đây làm chàng họa sĩ quên đi sự buồn chán bệnh tật, nỗi bất hạnh và bao sự đố kỵ của những kẻ bất tài vô tướng.
Nhưng với lòng đam mê hội họa và niềm tin bất biến, Levitan vẫn bỏ ngoài tai mọi lời ong tiếng nhặng để tiếp tục sáng tác. Bức tranh “Tu viện yên tĩnh” được tán thưởng trong một cuộc triển lãm lớn. Tiếp đến, họa phẩm “Phong cảnh mùa thu với nhà thờ-1890” , rồi “Tiếng chuông chiều -1892”… Bức tranh phong cảnh nào cũng điêu luyện nghệ thuật và bút pháp, đã chuyển tải đến người thưởng ngoạn cảm giác thư thái trong lòng từ một cảnh trí tĩnh mịch yên bình từ xa văng vẳng tiếng chuông ngân. Riêng họa phẩm “Tiếng chuông chiều” được trưng bày ở phòng tranh Nga trong cuộc triển lãm quốc tế ở Chicago (Mỹ). Bức “Đường Vladimir” có nội dung hiện thực, tố cáo chế độc chuyên quyền; Bức “Mặt nước phẳng lặng -1892” thể hiện một sự nhẫn nhục, chịu đựng gần như là thái độ phản kháng bị tắc nghẹn.
Nhưng chính họa phẩm “Mùa thu vàng -1895” trưng bày trong cuộc triển lãm tranh lưu động năm 1896 đã làm cho tên tuổi Levitan trở nên bất tử trong danh sách họa sĩ vẽ phong cảnh lỗi lạc trên thế giới. Ở bức tranh mô tả một mùa thu buồn rất Nga độc đáo này, họa sĩ sử dụng sắc vàng chủ đạo, vẽ ra trước mắt ta hình ảnh cành lá những cây bạch dương, cây phong, cây hoàng diệp liễu rực rỡ tươi sáng chan hòa màu sắc buổi hoàng hôn. Màu lam dìu dịu của dòng sông uốn khúc dường như muốn xoa bớt đi nỗi buồn của mùa thu mà vẫn như đọng mãi một nỗi lưu luyến nơi lòng người trước cảnh rực rỡ cuối cùng trong năm của thiên nhiên, để sau đó nhường lại cho mùa đông lạnh giá, tối tăm và ảm đạm.
Phải chăng ở đây phong cảnh cũng chỉ là một trạng thái của tâm hồn (le paysage n’est qu’un état d’âme. Tác phẩm nào của Levitan cũng có thể đem đến cho sinh viên, học sinh mỹ thuật những điều hay đáng được khám phá và học hỏi về nghệ thuật vẽ tranh phong cảnh. Dù sức lực ngày một kiệt dần, Levitan hằng ngày vẫn tận tụy với học trò ở trường dạy vẽ và không ngừng sáng tác. Những bức tranh phong cảnh vẽ lúc gần cuối cuộc đời ngắn ngủi của họa sĩ: “Làng quê trăng sáng- 1897”, “Đồng cỏ ở bìa rừng – 1898”, “Đồng cỏ khô”, “Giông tố và mưa”, “Hồ – 1890” (còn gọi là “Nước Nga hay “Tổ quốc”), “Tia nắng cuối cùng”, … Đặc biệt trong bức tranh “Tia nắng cuối cùng”, vẫn với phong cách trữ tình trong bút pháp, Levitan đã như muốn mượn cảnh làng quê nhập nhoạng trong ánh chiều tà đang chìm dần vào bóng đêm, để gợi lên một sự lắng đọng tâm tư và lòng bồi hồi xao xuyến ở con người trước cảnh hoàng hôn của thiên nhiên.
Phải chăng là “Tài mệnh ghét nhau” như lời một thi hào đã nói mà cuộc đời như một trái đắng. Ở nước ta cũng không hiếm những minh chứng định đề này trong lịch sử văn học nghê thuật: Bích Khê (1916-1946), Hàn Mặc Tử (1912-1940),Thạch Lam (1910-1942), Vũ Trọng Phụng (1912-1939)… Trong khi tài năng nghệ thuật của Levitan đang tiếp nối bay cao thì căn bệnh tim trong người anh lặng lẽ tàn phá đến mức nguy kịch: họa sĩ bị giản động mạch chủ và có băng trên ngực. Có những cơn đau tim đột ngột làm vật ngã Levitan trước cầu thang của viện Bảo tàng, người ta phải vội đỡ họa sĩ dậy để đưa về nhà. Ngày 26 tháng 09 năm 1897, giáo sư hội họa Savrasov, người thầy tận tụy đáng kính của Levitan qua đời. Khi nghe tin, anh vẫn cố gượng dậy viết một bức thư thăm hỏi bạn bè và cho đăng bức thư ấy trên báo như một vòng hoa dâng lên mộ người thầy học đáng kính trong đời mình.
Dù sớm được biết tới về tài vẽ tranh phong cảnh, họa sĩ Levitan đã phải sống nghiệt ngã suốt cuộc đời ngắn ngủi trong cảnh đói nghèo, bệnh tật cũng như nỗi đau buồn về chuyện tình ái lứa đôi nên anh mất khi mới 40 tuổi. Mộ phần Levitan đặt tại Dorogomilovo, sau được cải táng về nghĩa trang Novodevichy (Moskva), nằm cạnh bên mộ người bạn thân là nhà văn Chekhov.
Họa sĩ tài hoa Levitan đã để lại một sự nghiệp phong phú và giá trị đặc biệt về tranh phong cảnh trữ tình ấn tượng của bậc thầy trong di sản nghệ thuật thế giới!
Đan Thanh