Pablo Neruda suýt bị từ chối giải thưởng Nobel Văn học vì những lời ca tụng Stalin

705

Cùng với việc tiết lộ danh sách rút gọn giải thưởng, các tài liệu lưu trữ mới được mở cho thấy hội đồng giám khảo năm 1971 lo ngại quan điểm chính trị của người thắng giải “không phù hợp với mục đích của giải thưởng”.


“Định mệnh và ước mơ của một lục địa”… Pablo Neruda. (Ảnh: Gamma-Keystone/ Getty Images)

Danh sách các nhà văn tham gia tranh cử giải Nobel cùng các cuộc thảo luận của các thành viên bí mật trong hội đồng giám khảo tại Viện hàn lâm Thụy Điển, được giữ bí mật trong vòng 50 năm. Kho lưu giữ mới được mở cho thấy, mặc dù Pablo Neruda đã đoạt giải Nobel Văn học năm 1971 vì “vì thơ ca với sức mạnh siêu nhiên thể hiện số phận và ước mơ của cả một lục địa”, nhưng đằng sau hậu trường, một số thành viên của Viện hàn lâm Thụy Điển đã do dự.

Họ đặt câu hỏi những tác phẩm như lời ca tụng của Neruda đối với Stalin phù hợp với quy định của Alfred Nobel rằng giải thưởng sẽ thuộc về “người sẽ tạo ra tác phẩm xuất sắc nhất trong lĩnh vực văn học theo một hướng lí tưởng” – theo nhà báo Kaj Schueler, người đã nghiên cứu các tài liệu của Viện Hàn lâm Thụy Điển từ năm 1971 cho tờ báo Thụy Điển Svenska Dagbladet.

Trong khi Chủ tịch ủy ban Nobel Anders Österling ca ngợi “sức mạnh tự nhiên và sức sống năng động” của Neruda, ông đặt câu hỏi liệu “khuynh hướng cộng sản ngày càng thống trị trong thơ của ông có phù hợp với mục đích của giải Nobel” hay không.

“Cách suy nghĩ của một nhà văn – dù là người theo chủ nghĩa Marx, người theo chủ nghĩa hiệp đồng, người theo chủ nghĩa vô chính phủ hay thứ gì khác – đều thuộc về quyền tự do của anh ta. Tuy nhiên, Neruda hoàn toàn tham gia về mặt chính trị, bao gồm cả thông qua các bài thánh ca của ông cho Stalin và các thành tựu tuyên truyền thuần túy khác. Trên cơ sở đó, tôi có sự dè dặt về việc ứng cử của anh ấy, tuy nhiên, tôi không muốn từ chối một cách kiên quyết,” Österling viết vào năm 1963 và vẫn giữ vững quan điểm này vào năm 1971, theo Schueler.

Österling trước đó đã lên tiếng phản đối ứng cử của Ezra Pound vì ông “tuyên truyền những ý tưởng có bản chất chắc chắn là trái với tinh thần của giải Nobel”, và Samuel Beckett vì chủ nghĩa hư vô của mình. Österling cuối cùng đã bị thuyết phục về công lao của Beckett giành giải thưởng Nobel văn học vào năm 1969 và Neruda nhận giải năm 1971, nhưng Pound thì không thể thuyết phục được ông.

Việc mở tài liệu lưu trữ cũng cho thấy WH Auden, James Baldwin, Philip Larkin và Jorge Luis Borges đều được đề cử cho giải thưởng năm 1971. WH Auden lọt vào danh sách rút gọn cùng với Patrick White, André Malraux và Eugenio Montale. Patrick White đoạt giải Nobel Văn học năm 1973 và Eugenio Montale đoạt giải năm 1975 nhưng André Malraux và WH Auden lại không thể nhận được vinh dự ấy.

Pablo Neruda là bút danh của Neftali Ricardo Reyes y Basoalto – nhà thơ Chilê đoạt giải Nobel Văn học 1971 “vì thơ ca với sức mạnh siêu nhiên thể hiện số phận và ước mơ của cả một lục địa”. Bút danh Neruda được lấy theo họ của nhà thơ Séc Jan Neruda. Nhà văn Gabriel Gabriel García Márquez gọi Pablo Neruda là “nhà thơ vĩ đại nhất của thế kỉ 20 bằng bất cứ ngôn ngữ nào”. Nhà phê bình văn học Harold Bloom xếp Pablo Neruda là một trong 26 nhà văn trung tâm của “Truyền thống phương Tây” trong cuốn sách nổi tiếng The Western Canon.

Neruda sinh ngày 12/7/1904 tại thị trấn Parral, sau đó gia đình chuyển về Temuco, miền nam Chilê. Ông học tiếng Pháp và Giáo dục học, rồi dạy tiếng Pháp, làm nhà ngoại giao, đi rất nhiều nơi trên thế giới; là một trong những nhân vật quan trọng trong chính quyền Chile. Năm 1927 ông làm lãnh sự Chilê ở Burma (nay là Myanmar), năm 1932 ở Argentina, năm 1934 ở Tây Ban Nha. Năm 1945 được bầu vào Thượng nghị viện, nhưng mấy năm sau bị buộc tội phản quốc và phải trốn sang Mexico vì đã công khai phê phán chính phủ đương nhiệm. Năm 1970 ông về nước ra tranh cử Tổng thống, là bạn và người ủng hộ nhiệt thành của tổng thống S. Agende.

Pablo Neruda bắt đầu sự nghiệp văn chương từ rất sớm; hai mươi tuổi ông xuất bản tập thơ Hai mươi bài thơ tình và một bài thơ tuyệt vọng, là tập thơ bán chạy nhất ở Chile, làm cho ông trở thành một trong những nhà thơ trẻ nổi danh nhất ở Mĩ Latinh. Tập thơ Bài ca chung gồm 340 bài thơ được coi là kiệt tác đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của ông.

Neruda đã đi từ trường phái biểu tượng sang siêu thực và cuối cùng trở thành hiện thực, là nhà thơ nhập cuộc, nhà thơ chiến đấu, ảnh hưởng của thơ ông đối với các dân tộc nói tiếng Tây Ban Nha là rất lớn. Năm 1971 ông được trao giải Nobel vì những lời thơ phản kháng vang khắp thế giới, có một trí tưởng tượng mãnh liệt và chất trữ tình tế nhị. Neruda là nhà nghệ sĩ cách mạng đấu tranh cho phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Mĩ Latinh và hòa bình thế giới, là tác giả của những kiệt tác thơ tình cuồng nhiệt, những áng thơ triết lí sâu sắc và của cả những bản tụng ca những điều giản dị, đời thường. Ông được coi là một trong những nhà thơ hàng đầu của thế kỉ XX.

Pablo Neruda mất ngày 23/9/1973 tại thủ đô Santiago, 12 ngày sau khi chính quyền của Tổng thống Salvador Allende bị lật đổ và Augusto Pinochet lên nắm quyền. Nhà thơ “đã sống một cuộc sống dệt từ tất cả mọi cuộc đời”, tác giả của 40 tập thơ không hề giống nhau, để các nhà phê bình gọi là “một xưởng thơ”. Ông là người thể hiện tâm hồn của các quốc gia Mĩ Latinh, người đạt đến đỉnh cao của thơ Baroque Tây Ban Nha.

Tác phẩm:

Bài ca ngày hội (La cancion de la fiesta, 1921), thơ

Hoàng hôn (Crepusculario, 1923), thơ

Hai mươi bài thơ tình và một bài thơ tuyệt vọng (Viente poemas de amor y una canciún desesperada, 1924), thơ

Sự mạo hiểm của con người bất tử (Tentativa del hombre in finito, 1926), thơ.

Trú ngụ trên trái đất (Residencia en la tierra, tập 1, 1933, tập 2, 1935), thơ

Tây Ban Nha trong tim (Espana en el corazon, 1937), thơ.

Bài ca Stalingrad (Canto Stalingrado, 1942), thơ.

Bài ca chung của Chile (Canto general de Chile, 1939), chùm thơ sử thi.

Bài ca chung (Canto general, 1950), thơ.

Chùm nho và những ngọn gió (La uvas y el viento, 1954), thơ.

Bài ca khởi thủy (Odas elementales, 1954_1959), thơ, 3 tập

Bài ca chiến công (Canción de gesta, 1960), thơ.

Đi biển và trở về (Na vegacionesy regresos, 1959), thơ.

Một trăm bài sonnnê tình yêu (Cien sonetos de amur, 1960), thơ.

Những viên ngọc Chile (Les piedras de Chile, 1960), thơ.

Những bài ca nghi lễ (Cantos ceremoniales, 1961), thơ.

Đài kỉ niệm của Isla Negra (Memorial de Isla Negra, 1964), thơ

Những cánh tay của ngày ( Las manos del día, 1968), thơ

Ngày tận thế (Fin de mundo, 1969), thơ

Những viên đá trời (Las piedras del cielo, 1970), thơ

Biển cả và tiếng chuông (El mar y las campanas, 1973), thơ

Trái tim vàng (El corazon amarillo, 1974), thơ

Tôi xin thú nhận rằng tôi đã sống (Confieso que he vivido, 1974), văn xuôi

Thơ ông được dịch nhiều và được yêu thích ở Việt Nam. Một vài tác phẩm của Pablo Neruda đã in ở Việt Nam: Thơ Pablo Neruda (Đào Xuân Quý dịch, NXB Văn Học, 1961, tái bản năm 1974), Không đề, Ôi tình yêu cay đắng, Trong bao sao sáng ngợi ca, Khi anh chết (in trong 100 bài thơ tình thế giới, Sở Văn hóa – thông tin đặc khu Vũng Tàu Côn Đảo, 1986)…

Theo Bình Nguyên/Văn nghệ Quân đội