Dì tôi – Tản văn Tuấn Trần

Loading

(Vanchuongphuongnam.vn) – Dì tôi là một cô giáo dạy Toán từng học rất giỏi môn Vật Lý- lại là một người yêu thơ, trong tâm hồn dì thât nhiều chữ nghĩa. Một lần, giọng dì trầm ấm, thong thả kể tôi nghe về bài thơ đầu đời mà dì được tặng. Năm ấy dì tròn mười sáu và chủ nhân thi phẩm đó chính là thầy giáo chủ nhiệm lớp 10:

Ảnh minh họa. Nguồn internet

“Cô học trò giỏi Lý của tôi ơi!
Em như Niu-tơn đãng trí trước đèn
Như Lép-nít thấy mình trong giấc ngủ
Từ Cô-si điều kiện cần và đủ
Em ra đời trong sương gió, em ơi!
Chuỗi Hăm-le giới hạn bất thường
Hàm một biến nhớ giữ phần liên tục, nghe em!”

Dì đọc lại đoạn thơ đó mà mắt như ánh lên những tia nắng xa xưa, rồi khẽ cười tiếp phần trả lời:

“Thầy ơi! Cuộc đời là những biến số
Hạnh ngộ và chia ly lẽ thường
Hàm đa liên em đã học nhiều
Đơn điệu nhiều và biến số lung tung
Điểm khả vi vung vãi nhiều miền
Một biến làm sao em theo được, hỡi thầy!”

Người phụ nữ đang kể chuyện với tôi năm nay đã ngoài sáu mươi. Thân thể hao gầy, làn da khô sạm, nhưng giọng nói thì vẫn đậm đặc sắc quê, với tư thái dân gian chân mộc mà thật truyền cảm. Cuộc đời dì tôi trải dài bằng những mất mát, thiệt thòi, nhưng chưa một lần tôi thấy dì thôi nói lời hy vọng khi dưới bóng mặt trời, trước mặt nhân sinh.

Tôi từng phẫn uất bởi miệng đời với lời ác ngữ:
– “Cây độc không trái.”

Nhưng đó là một sự lầm tưởng cay nghiệt. Dì tôi không độc. Dì là một cái cây có rễ đắng nhưng kết quả ngọt lành. Dì sinh ra ở miền Trung Việt vào cái thời đất nước còn làm thân nô lệ. Nhà đông con, lại nghèo. Dì lớn lên dưới bàn tay thương yêu săn sóc của bà ngoại, được ông dạy dỗ về tình yêu đất nước, con người qua thi ca. Là con cả, dì phải nhường ăn, nhường mặc, sớm tối lam lũ cùng mẹ, dạy dỗ, đèo cõng các em đi học…

Vậy mà dì học rất giỏi. Giỏi đến mức được tuyển thẳng vào Trường Sư phạm. Những năm sinh viên, dì sống kham khổ, buộc bụng thắt lưng để gửi quà bánh, sách vở về cho mẹ và mấy đứa em. Rồi năm hai mươi mốt tuổi, sau một ốm nặng tưởng không qua khỏi. Thầy Lang bảo vì uống nhầm một loại lá rừng mà Dì tuy sống sót nhưng mãi mãi mất đi khả năng sinh con. Biết đời mình bất hạnh như thế, dì từ chối những đám mối mai, giạm hỏi. Có người tốt, có người thương thật lòng, nhưng dì nghĩ:

“Khi không có con, thì chỉ làm khổ người… khổ mình.”

Dì chọn sống cho người khác. Cho các em, các cháu. Dì là người mẹ thứ hai của gia đình. Là người chị cả suốt đời làm cái bóng hy sinh.

Năm dì bốn mươi lăm tuổi, người ta gọi là gái trưa chợ, nạ dòng. Khi đàn bà chưa có chồng, cái tuổi đã chênh vênh mà tương lai xem như đã đóng sầm. Có hai người đàn ông sa nhỡ vợ con đã tìm đến, mong được cùng dì đồng ý sửa gối nâng khăn. Vì lẽ sợ làm gánh nặng cho bố mẹ và cậu cả, dì đã chọn đại một người đàn ông goá vợ, có ba con riêng, sống ở thành phố Vinh. Tất nhiên không phải vì yêu hay cảm mến. Mà vì một lý do giản dị đến xót xa:

“Cháu mình sau này lên thành phố học, đói khổ cũng có chỗ mà qua lại.”

Dì lại tiếp tục hi sinh. Vun vén. Thương con chồng như con mình. Từng muỗng cháo, từng giấc ngủ, từng đồng tiền đều từ tay dì chăm lo. Và rồi chính dì cảm hóa được họ. Bây giờ, họ gọi dì là mẹ. Các cháu gọi là bà nội, chúng nhận được từ dì cái nhìn đầy dịu dàng và trách nhiệm.

Có một thời gian tôi giận dì. Tôi thấy mình không là gì trong lòng dì.

Dì yêu thương anh họ tôi hơn tất cả. Anh là con trai duy nhất của cậu thứ hai. Dì chăm từng giấc ngủ, lo từng bữa ăn. Tôi thấy tủi thân. Tôi ganh tỵ. Tôi từng chối bỏ tình cảm của dì, từng cau có, lầm lì. Mãi đến sau này, tôi mới hiểu. Dì am tường tử vi, có lẽ dì linh cảm được tương lai bất trắc của anh. Dì thương anh như người mẹ biết mình chẳng còn được bao lâu để dồn cả đời sống cho một hy vọng nhỏ nhoi.

Ngày anh mất, tôi chưa bao giờ thấy dì đau như vậy. Người đàn bà mạnh mẽ ấy đã ngồi ôm di ảnh anh thật lâu, mắt trũng sâu, miệng chỉ lặp lại vài câu:
– Hồi nhỏ, nó thích ăn đậu phụ chiên… thích dì kể chuyện Lý Công Uẩn…

Nỗi đau hóa thành kỷ niệm. Dì tôi chưa bao giờ yếu thế trước số phận, nhưng có lẽ sau ngày đó, lòng dì như khuyết đi một nửa.

Tôi về thăm dì vào một chiều mưa lạnh. Sáu năm rồi tôi mới lại bước qua ngõ nhỏ Ngô Đức Kế, nơi ngày còn là sinh viên, tôi từng lui tới chỉ để có bữa cơm no. Tôi đã từng là một thằng đàn ông ích kỷ, chỉ đến tìm dì khi thóc cao gạo kém. Dì chưa từng nặng lời. Dì vẫn cắt phần ăn của mình, giấu quà vào ba lô cho tôi, dúi vài tờ tiền nhỏ lẻ từ đồng lương giáo viên ngặt ngèo được chia đến vụn vặt, rồi nói:
– Dì còn mà, cứ yên tâm học.

Giờ đây, thấy dì ra mở cửa, hai má đã hốc sâu, thân thể hao gầy, tôi cố cầm giữ nước mắt. Còn Dì thì vẫn vậy – vẫn nói chuyện nghề dạy học say sưa như thể tuổi tác chưa từng chạm đến.

Dì kể chuyện ngày mới ra trường, được thầy căn dặn:

“Hiến của thầy! Dù cuộc đời có muôn vàn khó khăn, thì có hai việc em không được bài xích: Ăn hết phần cơm của mình – và sinh ra những đứa con tốt lành.”

Dì nói:
– Việc thứ nhất để sống. Việc thứ hai là để sống có ích. Mà dì thì… chỉ làm được một nửa.

Dì còn dạy tôi nhiều điều về nghề giáo, thứ nghề tôi đang theo mà nhiều lúc muốn bỏ.

– Với học trò, con hãy yêu thương hết lòng, nhưng giữ một khoảng cách. Đừng trưng hết tấm lòng ra ngay. Con phải để lại một phần bí ẩn để học trò tự tìm tòi mà đến với con.

– Sản phẩm của con là con người, là nhân cách bằng máu, bằng thịt. Đi sai một đường chỉ mũi kim là con thêu sai cả đời trẻ.

Dì dạy tôi cách nhìn học sinh:

“Trước tiên là bằng mắt thiện cảm – để thấy điều đẹp đẽ.
Rồi đến con mắt chuyên môn – để biết điều sai lầm khuyết nhược.
Cuối cùng là con mắt nhân đạo – để sửa phạt đúng mực, yêu thương.”

– Nhưng… dì chưa bao giờ nghĩ mình sửa ai. Dì chỉ mong được lắng nghe, được thấu cảm… và được cho đi.

Tôi đã mạnh dạn nói lời xin lỗi. Vì những năm tháng đã sống bạc cạn ươn hèn. Dì cười nhẹ như vô tư…

Cái “vô tư” của dì – là thứ vô tư của một người đã quen khổ. Người mà cuộc đời gắn với cái tên “lo cho người khác”, đến mức quên cả quyền được buồn của mình.

Một lần đi xe buýt với dì về quê, qua một rừng cây, dì nhìn qua cửa kính rồi nói khẽ:

“Không biết trong những cái cây kia… sau này có cây nào nguyện đóng ván cho dì không nhỉ?”

Tôi nghe mà lòng đột nhiên thảng thốt.

Giờ dì đã già. Dượng đã mất. Tôi như cánh chim, như áng mây, đã cuốn vào mênh mông số phận, hiếm hoi mới trở lại quê nhà. Không biết tôi còn được gặp dì bao nhiêu lần nữa?

Dì tôi – làm thân con vành khuyên cả đời nuôi con gọi vịt.
Dì tôi – người phụ nữ sống để cho đi chứ chẳng nhận riêng mình…
Dì tôi – người thầy, người mẹ, người tri kỷ, người đã âm thầm giữ lại những hạt nắng cuối cùng cho đám học trò vô tâm như tôi.

T.T