Trần Anh Thái – Nhà thơ tiêu biểu cho tiếng nói hiện sinh thân phận con người châu thổ thời đổi mới

Loading

                          Bùi Văn Kha

(Vanchuongphuongnam.vn) – Vừa rồi, đất nước ta tổ chức Đại lễ A80 kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh mồng 2 tháng 9 năm 1945. Đó là sự kiên trọng đại của tổ quốc ta, dân tộc ta, nhân dân ta. Cũng là dịp biểu dương sức mạnh  của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa trước năm châu bốn biển.

Nhà thơ Trần Anh Thái

Dịp ấy, trên mạng cũng truyền lan tìm hiểu thông tin về Nạn đói tháng Ba năm Ất Dậu 1945, thu hút rất nhiều cộng đồng mạng theo dõi.

Cách đây 30 năm, có một nhà thơ Việt Nam đã viết Trường ca: Đổ bóng xuống mặt trời (1999), nói về sự việc này. Đó là nhà thơ Trần Anh Thái. Trong Năm bốn nhăm, các nhân vật chỉ là Con Người Tồn Tại Đấy, chứ không phải là “động vật chính trị” của Arixtot – Hy Lạp, không phải là humo sapient – động vật tinh khôn của triết học La mã, hay “bản chất con người là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội” – C.Mác – Đức. Ở đây, trường ca chỉ bộc lộ con người nhỏ bé, trong quan hệ huyết thống nhỏ bé, để cuốn vào một việc kinh hoàng to lớn: sự chết! chết đói!

Bằng thủ pháp hồi cố tự sự, Trần Anh Thái khôi phục hình tượng chị, cha, mẹ trong bối cảnh sử thi tin cậy. Ông không hồi ức,vì lúc ấy ông chưa có, chỉ nghe cha, mẹ kể lại, về cái chết của người nhà mình, người làng mình. Còn sự thật nào chân xác hơn thế.

Những ai đi trên con đường Thái Bình – Tân Đệ, đến Cây số Sáu, sẽ thấy một nghĩa trang ven đường, Chính là nơi năm Bốn nhăm vùi lấp người chết đói. Có những bức ảnh của Nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh chụp trực tiếp tại đây. Những bức ảnh lịch sử khủng khiếp!

Trần Anh Thái đưa ra sự tồn tại bất lực, khi con người bình thường không thể sống như trước được nữa.  Ám ảnh về nghèo đói, nếu những ai sống hơn 60 năm ở Việt Nam về trước, thì nó kinh hoàng lắm. Cho nên, bài thơ gửi một tồn tại ảo giác, về thân phận con người. Hỡi loài người, hãy luôn luôn cảnh giác! – (J.Fuxik).

Tôi không thể để toàn bài, đành trích từng đoạn.

Năm bốn nhăm

I

Chị tôi chết không cơm không áo
Cha ôm vùng đêm tối đi chôn
Bóng đêm đổ đầy phên liếp
Biển rền man dại trời bên
Mẹ như chiếc phao không bến
Trái na già vỡ vỏ giữa cơn giông
Vầng trăng gẫy trên đầu ngọn sóng
Vệt sáng đắng cay mặt cát đổ dài.

Lên bảy tuổi anh tôi về quê nội
Dọc đường đi khuỵu xuống gốc xoan
Mặt đất cuốn một vùng gió xoáy
Cỏ hai bờ rạp dấu chân non.
Cha tôi chạy về làng xin nước
Chưa kịp quay ra anh đã chết
Mây thổi xanh xao
Cha ngã vào bầm đêm sương muối.

III

Mẹ tôi sinh lần thứ ba bên bờ sông Cái
Ngày sau ra đồng nhặt ngọn rau lang
Những ngọn khoai dần chết
Nhựa hoá thành máu trắng chảy dọc đêm.
Ông nội bán đi thửa ruộng cuối cùng chia cho con cháu
Cha kế thừa chiếc rìu và con dao rựa thuở xưa
Ông mài cuộc đời vào phiến đá xanh kê trên
bậc cửa
Thạch sùng kêu oi óc hiên nhà.
Biển mất mùa hải âu đi mất
Bệnh đậu mùa gõ cửa các căn nhà
Người sống tựa vào người khuất
Tiếng dế cào dệch doạch mặt dất quê.
Ở đâu một cõi đi về
Xua nhọc nhằn gió cát
Mây trời ngăn ngắt
Mắt người nhằng nhịt đường ra.

Bao người đi không về làng nữa
Bao người chôn xác giữa mây ngàn
Rừng bí ẩn thác ghềnh vực xoáy
Vách núi không người hú vọng mê man.
Ngõ làng mòn nắng hoàng hôn
Xác con trẻ chiếu manh bó vội
Mưa dầm bến đợi
Dịch bệnh tràn lấp mặt trời lên.
Làng không sắc không màu
Mẹ chết đi sống lại
Cà chưa thành hoa sương muối chà nẫu ruột
Tiếng thở dài gập giữa hai vai.
Người lên rừng và người xuống bể
Những giấc mơ mất cánh trở về
Hồn lãng đãng sương mù cát bụi
Giữa bầu trời không ánh sáng vì sao.


VI

Tiếng thầm:

Một vì sao rơi qua mái nhà mọt đục
Một mặt trăng vừa khuyết qua rằm
Một tiếng sáo vượt lên cao vút
Gió tan
Lớp bọt biển giữa chân người còn toàn khoảng trống.
Sự lặng im ngăn ngắt từ đâu?
Và một ngày từ đâu đến…?

Tâm sự của cỏ:
– Hãy nằm trên mình tôi và ngủ
– Dịu êm lan toả từ sống lưng

– Trái đất không có gì bí mật.
Tiếng thầm:
– Mùa màng máu chảy
– Đất rách bóng người?
Tâm sự của đất:
– Hãy đưa tay phải lên ngực phải để nghe nhịp đập trái tim bên ngực trái.
Tiếng thầm:
– Người chết đồng làng, giấc mơ mở mắt?
Tâm sự của gốc đa già:
– Cỏ vẫn xanh mướt cánh đồng
– Cái chết không chứa chấp những điều nhỏ nhặt.

Tôi sở dĩ đưa bài Năm bốn nhăm lên đầu, là vì cách đây 30 năm, tư tưởng hiện sinh, nghĩa là bản thể, không duy lý bản chất, vẫn chưa là nhãn quan được hoan nghênh, nhất là các nhà thơ mới, trẻ tuổi. Cái gì cũng phải bản chất, bản chất cao hơn hiện tượng. Cái gì cũng phải điển hình. Văn học là phải điển hình! điển hình! điển hình!…

Tôi không phải trái đúng sai cái gì! Còn nhớ, một nhà phê bình văn học Nga có viết: Thời gian, thời đại bao giờ cũng đúng khi nó đang tồn tại, và bao giờ cũng bị coi là sai lầm khi nó đã đi qua.

Trần Anh Thái, ít nhất cũng đóng góp một cách nhìn xử lý lịch sử khi đặt nó vào phép trừu tượng tận cùng của bản thể sự vật. Qua đó, ông nhìn những sự, những việc nó không bị chồng chéo nhằng nhịt. Đó là một thái độ nghiêm túc của nghệ thuật học.

Thực tế những năm 80, 90 thế kỷ 20, ở đồng bằng châu thổ còn nhiều bất cập, nhiêu khê lắm. Cũng còn đói lắm. Bên cánh đồng vẽ ra những se sắt phận người. Cho đến giờ, ở Bắc bộ, nông dân lại không tha thiết nhiều với đất. Họ không muốn “đất với người cùng một dòng suy nghĩ – Đầu đất(!) nữa”. Thời đã khác rồi, phải liệu mà sống chứ!

Bên cánh đồng

Đã hết chiều
Những tia sáng trên cánh đồng vẫn còn lần lữa
Buốt lạnh chạm vào se thắt sâu xa

Con sông chở hoàng hôn chiều nay không vỗ sóng
Bến đò hoang loang nắng xa buồn
Thửa ruộng nhỏ suốt đời mẹ ta đào xới
Vẫn còn nguyên gốc rạ lấm mặt người

Ta bỏ ồn ào về bên đồng cỏ
Lặng lẽ nghe tiếng gió u trầm
Cho ta ngậm nỗi buồn chôn giấc mơ trong đất
Trước hiên nhà tiếng ếch nghẹn câm.

Phía chân trời cơn mưa vần vũ
Đổ xuống người đang cắt lúa đêm
Đêm úp xuống lưng – người úp vào bóng tối
Mặt đất lem nhem sau tiếng thở dài

Bài Khoảng khắc thuộc bài thơ trữ tình nói đươc rất nhiều về cái không đọng lại, không định hình, trong quan hệ nam nữ ở nông thôn. “Điều chúng ta tin còn chưa kịp nói/Giờ đã thành cuốn sách qua trang/Sao sáng chờ ai/Mà chiều quay bước/Hoa rơi nhoà mắt/Tôi nhặt gói về cánh mỏng ấu thơ”. Tính bất ổn, qua hình tượng của thơ, đã vượt qua tâm trạng. Đã đến lúc của thái độ rồi. (Nói thêm “phi nông bất ổn” chính lại nói cái “đại yên” – núi lớn của nông nghiệp). Hai câu kết “Tôi xin gửi giữa mặt trời rực nắng/Những nhuỵ vàng cay đắng giấu sau hoa” làm tôi nhớ hai câu thơ “Cây cúc đắng quên lòng mình đang đắng/Trổ hoa vàng dọc suối để ong bay” (Phạm Tiến Duật). Cảnh tình khác nhau, chắc cái đắng cũng hoàn cảnh khác nhau, nhưng đều “đắng” cả!

Khoảnh khắc

Những ngọn gió đi qua không để dấu dọc đường
Bao mùa chim én xây lâu đài bị vùi tan giữa cánh đồng cỏ dại
Và em nữa
Điều chúng ta tin còn chưa kịp nói
Giờ đã thành cuốn sách qua trang
Sao sáng chờ ai
Mà chiều quay bước
Hoa rơi nhoà mắt
Tôi nhặt gói về cánh mỏng ấu thơ
Con chim qua bão tố trở về
Chân đê cũ vắng tiếng cười khúc khích
Những chiếc lá đổ nghiêng dòng nước
Sợi tóc bay số phận hai chiều
Em trong tôi câu thơ chưa viết
Những câu thơ nối hai vạch vui buồn
Chiều đến thả hoa vàng da diết
Đêm mơ hồ giấc ngủ chẳng lời ru
Hoa quỳnh nở giữa đêm về sáng
Vầng trăng xua đôi chút nghi ngờ
Tôi xin gửi giữa mặt trời rực nắng
Những nhuỵ vàng cay đắng giấu sau hoa.

Thơ Trần Anh Thái buồn lắm. Cái buồn hiện sinh thân phận. Ông đặt ra tương phản chính phản. Ông đại biểu cho những lạc lõng đang tồn tại. Ông không giải quyết được nó, như cha ông không giải quyết được sự bất lực tồn tại năm bốn nhăm. Đọc Giữa trời ta thấy hoang mang.

Giữa trời

Ta lạc vào
Dòng người vội vã
Những nụ hoa rụng đầy hoàng hôn

Gió đi
Không còn tiếng reo trên mặt hồ
phủ khói
Những tia nắng xa dần

Em ở đâu
Ngọn lửa nào sáng lên con đường cũ

Ta tựa vào bóng đêm nơi chân tường vừa đổ
Sương ướt đẫm hàng cây
Con đường trôi qua bóng đêm

Không phải nước của dòng sông
con thuyền không về bến
Tiếng sáo xưa lạc lõng bên đồi.

Ở Những con sóng là bóng, là mơ, là huyễn hoặc, cũng toàn ảo giác. (Có một bài thơ của Trần Anh Thái có tựa đề này, nhưng ta sẽ nói ở phần sau). Buồn đã vào đến “thực tế ảo”, nhưng lúc Trần Anh Thái làm bài thơ này, làm gì đã có Thực tế ảo?

Những con sóng

Chiều nay tôi mang bóng em về nghe biển hát
Gió ru mơ trên cát se buồn
Sóng mê dại xây lâu đài bằng cát
Lớp bọt biển trắng tinh tan vỡ ngày ngày

Giữa đêm trắng vai gầy rũ bóng
Tôi là kẻ lang thang thương tích đầy mình
Về đáy ngày nhặt thời gian lấm đất
Ngày ngã phía bên kia nơi bóng tối dâng tràn

Tôi huyễn hoặc em hoặc là huyễn hoặc mình
Đến cùng hoàng hôn tìm rạng đông bừng sáng
Ai đó nâng tôi vào vòm xa hút
Biển kín bưng trong tiếng sóng u trầm.

Lột tả thân phận rõ nhất là ở bài Tiếng vọng. Đã bắt đầu có những lời thơ hy vọng. Đó là lời mở đầu của một tồn tại mới. Nhưng ông người châu thổ, và phương tiện của ông, và hoàn cảnh của ông vẫn còn cũ kỹ lắm, vẫn còn lỗ chỗ lắm – mà lại từ trời, từ phía ngoài ông. “Đàn sếu kêu sốt ruột cánh đồng/Bốn gọng vó còng queo in lên trời biếc/Tiếng ếch ran cho đêm bớt vắng/Và đám mây lặng yên che giấc ngủ của trời”.

Cô đơn và trống rỗng, như bức Chân dung tự hoạ của Van Gogh, như thầy giáo Thứ trong Sống mòn của Nam Cao, mốc lên. “Chỉ còn ông ngày ngày ngồi đấy/Chiếc sào tre cũ kỹ phủ rêu”.

Cũng nên nói kỹ chút về tiếng vọng. Người nhà quê tin mỗi người có một linh hồn. Bình thường nó song hành ẩn mình. Khi sắp mất, nó buồn bã thê lương hiện ra về đêm bằng âm thanh như tiếng sáo diều. Khi sự sống chấm dứt, nó rơi xuống đất. Nhiều người quả quyết nghe rõ tiếng nó rơi.

Nhà thơ Trần Lê Văn hơn 40 năm trước có bài thơ Tiếng vọng 8 câu, kết là “Có ai nghe thấy một tiếng vọng/Thì thả con thuyền sang với tôi” để nói về bằng hữu chi giao. Trần Anh Thái là tiếng vọng của cô độc thân phận, ý thơ khác hẳn.

Tiếng vọng

I

Người cất vó bè dọc dòng không bến
Gió u mê không cuối không đầu
Cần vó cong suốt mùa nước nổi
Mưa nắng mòn tay, ông cất số phận mình.

Con cóc già vuốt mặt ngồi yên lặng
Cỏ đồng xanh nhàm chán kiếp người
Ngày tháng kéo nỗi buồn thả xuống
Nhịp thời gian biền biệt chảy trôi.

Dòng sông trước lều bao lần đổi nước
Những bọt bèo lặng lẽ ra khơi
Chỉ còn ông ngày ngày ngồi đấy
Chiếc sào tre cũ kỹ phủ rêu.

Sương khói tan nắng đã xế chiều
Chiếc thừng chão hai đầu chậm chạp
Mẻ lưới cất lên nước rơi trắng đất
Những mảnh trời lỗ chỗ vỡ vào sông.

Đàn sếu kêu sốt ruột cánh đồng
Bốn gọng vó còng queo in lên trời biếc
Tiếng ếch ran cho đêm bớt vắng
Và đám mây lặng yên che giấc ngủ của trời.

*

Tôi nằm trên diệc mạ giữa làng lắng nghe lời thì thầm vọng trong gió lạ. Không phải khúc hoan ca, đó là tiếng huyên náo ồn ào phát ra từ phiến đá cổ xưa. Câu chuyện muôn năm rì rầm thời hoang sơ mở đất. Đất ơi! Dòng máu người đang rần rật chảy, nắng quái mưa tràn không ố bẩn giấc mơ. Mặt trời ngày ngày đi qua bóng đêm câm lặng. Những rễ cây âm thầm xuyên trong nhọc nhằn cay đắng. Làng lớn dần. Nắng mới về trộn đầy trên những giàn hoa sớm. Khúc ca muôn đời trong đất sinh sôi.

*

Những giọt sương lung linh ngủ yên lành trên ngọn cỏ. Mùa màng hát ngợi ca về những chủ nhân. Gió trong suốt ru ca sự sinh tồn của đất. Tiếng chim chơi vơi trôi đi giữa mung lung. Lửa thắp lên trong mắt các vì sao. Giữa bữa tiệc lớn của đất trời, lửa lớn dần lên. Người làng hát vang bài ca về bao ngày lam lũ. Âm thanh vút cao vọng và cõi xanh sức mạnh vô biên, bất diệt của người.

Chiến tranh và tồn tại trên châu thổ. “Tuổi thơ đi biệt tích/Nhà láng giềng nhang cháy tàn đêm/Ngõ làng nhiều người thắt vòng tang trắng/Gốc đa già đỏ đất lá non rơi./Đồng không con trai cày ruộng/Mẹ ngày cán cuốc oằn vai/Thời gian tấy máu mòn tay/Tóc mẹ rụng những mảnh buồn lối ngõ./Làng vài ngày một tin báo tử/Các anh tôi thành hương khói vu vơ/Đất làng rũ gió/Chim chào mào lủi thủi bới tàn tro”.
Cảnh này như phim tài liệu những ngày tháng ấy. Tôi khuyên độc giả, nhất là thế hệ sinh sau năm 1975, cứ kiên nhẫn đọc. Mà thơ hay chứ bộ. (Ví dụ: chỉ có ai ở quê châu thổ mới biết từ “diệc mạ” – đấy là phương ngữ).Và đây là ý thức công dân tích cực của nhà thơ: không một chiều, nhiều chiều, đơn diện đa diện phân cực. Những âm bản, phía khác của chiền tranh cứ việc khai thác. Nhưng làng xã Bắc bộ trong Chiến tranh của Trần Anh Thái là sự phản ánh trung thực Hậu phương lớn lúc đó. Không phải lúc nào, nói như Nguyễn Lương Ngọc, “Bao giờ, tôi và anh, và bạn/ Cũng bắt đầu ngưỡng vọng bằng xúc phạm”. Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh là một sự trung thực. Và điều đó được đón nhận bằng tin phục tự nó.

Chiến tranh

LỚP HỌC

Người đưa thư báo tin chiến trận
Mẹ đánh rơi nia gạo xuống sàn nhà.

Quả mướp già cha để dành làm giống
Gió ngược hai chiều vặn rớt mặt ao.

Chim chích choè sợ đông đi tránh rét
Đu đủ đầy mùa héo lúc vỏ xanh.
Mèo khoang ngại ra đồng đuổi chuột
Nằm co ro xó bếp ngủ vờ.

Ngày hôm qua bom dội bến đò
Ông lão một mình không con vừa chết.
Dòng sông gục giữa hai bờ ối đỏ
Mặt nước đen cá đớp trăng mờ.

Làng có người đưa con vào thành phố
Ba ngày chưa về quạ rúc sát ngọn tre.

Trước sân đình cây đa già sụp tối
Những đốm tàn lụi cụi dưới đê.

Tôi đến lớp không còn như trước
Tấm bảng đen giữa bục trơ lỳ
Viên phấn mấy lần gẫy trong tay cô giáo
Ngoài sân trường gió thổi vân vi.

Đường làng ngày chật lại
Cây cúc đồng ngây dại nở hoa
Con giun đất giấu đầu trong bụi
Tiếng nấc khuya nghẹn tối không đèn.

Hầm tránh bom chi chít ngõ làng
Lớp học lô xô mũ rơm bện vội.

Cụm tre chiều qua đang xanh biếc lá
Bỗng sáng nay lửa đỏ rơi đầy.

Chúng tôi không còn trêu thằng Man mũi lõ
Chuyện vui đùa con trẻ dửng dưng
Nó cao quá lúc vào hầm hay vấp
Chúng tôi nhường nó xuống trước tiên.

Kẻng báo động suốt ngày bom rít
Mặt đứa nào đứa ấy tái xanh
Đám con gái khóc nhè co ro xó tối
Chúng tôi như bầy gà hoảng sợ bóng đêm.

Báo động xong lớp học khét mùi bom
Chợt nhớ con sáo trong lồng sáng quên chưa thả.

Có gì đó như bầu trời chết gió
Đường chân trời biển rạn vệt chớp tan.

Đất vò trong chảo bỏng
Lớp học mỗi ngày vài đứa gạch tên.

Sợi dây đứt giữa cánh diều ký ức
Gió chướng về quăng quật bờ bên.

Chiếc thuyền trăng đứng khóc
Trận giả bày ít đứa ham chơi.

Góc học tập cây đèn dầu rụi bấc
Cha cắt mo cau che bớt sáng ngoài thềm.

Tiếng cười trôi dạt về đâu
Đàn trâu làng thưa đi quá nửa
Ông canh đồng bỏ quên chiếc roi treo trong góc bếp
Ruộng bắp cầy lật đật bước chân.

Chiều mấy lần bom dội ở Cống Lân
Nhà suốt ngày cơm vùi tro nguội.

Khói bếp giấu vào sương
Bữa ăn che vào đêm xuống vội…

TIẾN ĐƯA

Tràn vào nhà
Anh tôi nhập ngũ
Mẹ ngồi vá áo
Mũi kim bật máu bàn tay.

Khách vào ra vội vã
Đám trai làng tán gẫu gốc sung
Ông hàng xóm nghe đài đọc báo
Giờ oang oang kể chuyện chiến trường.
Mẹ ngồi bóng tối
Con gà hoa mê ngủ gáy đêm
Sương muối đổ xuống ngọn cà ướt sũng
Sáng mai ra trái tím rơi đầy.

Cha mượn xe đưa anh vào đơn vị
Mẹ lặng lẽ gói áo quần anh mặc trước đây
Vải cũ bục qua bao lần vá
Mẹ giở ra gấp mãi lại nhàu.

Nhà bớt dần tiếng nói
Cha hay đi ra biển ít ngủ nhà
Cây trứng gà cha trồng bên giậu mướp
Gió khô về khát nước chết còng queo.
Cún vàng sợ bom đi trốn nơi nào
Những bức tượng tôi nặn bằng đất sét bỗng thừa ra
Hoa dong riềng chị quên không hái
Sâu róm ăn lỗ rỗ mặt chiều.

Mẹ đi nằm sớm
Gió vò võ đường xa
Sóng vỡ bờ ao
Tiếng ếch gào u mê hang tối.
Mưa như là thút dưới vực sâu
Mưa chạy về đâu
Mẹ choàng dậy ngọn đèn kỳ phụt tắt
Sáng tối ngược chiều rát mắt mẹ tôi.

Cha moi trong góc buồng
Những chiếc bao gai lâu không dùng đến
Đóng góp vào chiến tranh
Vườn chè cũng ra sân đình đưa tiễn.

Không có gì thừa
Không có gì là nhỏ
Cót thóc mỗi ngày vơi cạn
Hạt gạo cắt đôi chia nỗi đau buồn.

Những cơn gió mệt nhoài sau bao trận bão
Tóc cha tôi rụng trắng đất vô hình.

ĐỘC THOẠI

Tờ mờ sáng ông canh đồng giọng oang oang chum vỡ:
– Cây đa đầu làng bị sét đánh bẻ đôi
– Con chó già bỗng dưng giẫy lên đành đạch
Rồi lăn ra luênh loáng sân đình.

Ông canh đồng:

Giao thừa năm Dậu giữa đêm bừng sáng
Mối chết đầy sân
Kiến ngược cành cây
Tiếng mèo kêu ngao ngán suốt ngày.
Người làng thiếu con trai đánh trống
Đứng buông tay nhìn gấu ăn trăng
Ông cất vó sáng còn uống rượu
Chiều sau cơn gió trái đã qua đời.

Cha:

Những tiếng người xa xưa rì rầm ngõ xóm
Bà già còng bị cói còng lưng
Dưới đáy biển con sóng ngầm lặng lẽ
Ông nội một mình rẽ nước bỏ đi.
Cha cứ gọi giữa vô cùng vùng vẫy
Sóng chồm về
Nghẹn tiếng nấc khuya.
Người hàng xóm:
Bão dựng trước nhà
Xác người lạ dạt vào bụi dứa
Mây trời mê dại
Cánh đồng vang tiếng chó tru.
Người qua đường:
Mưa mãi đổ nơi đồng ngập úng
Giông cứ tràn lúc biển gầm sôi
Lúa chớm chín đòng đòng non sữa
Cơn lốc bay hoa phấn nát mặt người.
Tôi lên cấp ba ăn bo bo đi học
Củ khoai hà nuốt vội đêm
Trưa tan học đường về mười cây số
Lả cánh cò khuỵu xuống chân đê.
Con cún nằm thườn mình gầm chạn
Thi thoảng hự lên một tiếng ho khan
Con nghé ọ cuồng chân nhai lại
Đồng mất dần những bãi cỏ non.
Cha ngồi vò râu
Tiếng thuốc lào rít đất
Giông bão và chiến tranh hai đầu gập lại
Cha tôi nhìn không chớp phía đáy sông.

*
Tôi quỳ xuống giữa mô đất đồng làng, trận bão năm nào vùi chôn sông nước. Gió khô khát dưới chân, xác bao sinh linh bé bỏng tan trong cõi vô vi.
Bầu trời phăng phắc nắng. Đâu đây đổ vỡ lao xao, cu cườm vu vơ giữa khoảng âm âm mờ ảo.
Ngọn lửa trước sân đình đốt lên thiêu cõi âm u. Những bàn tay gân guốc, già cả nắm giữ đất đai huơ vào thời gian vĩnh cửu.
Nhọc nhằn, tình yêu và cái chết, hoà điệu cùng bài ca dính đầy mồ hôi của đất.

CHUYỆN Ở LÀNG

Tuổi thơ đi biệt tích
Nhà láng giềng nhang cháy tàn đêm
Ngõ làng nhiều người thắt vòng tang trắng
Gốc đa già đỏ đất lá non rơi.
Đồng không con trai cày ruộng
Mẹ ngày cán cuốc oằn vai
Thời gian tấy máu mòn tay
Tóc mẹ rụng những mảnh buồn lối ngõ.
Làng vài ngày một tin báo tử
Các anh tôi thành hương khói vu vơ
Đất làng rũ gió
Chim chào mào lủi thủi bới tàn tro.

Chị tôi tuổi dậy thì mưa nắng
Ngày đi về se thắt mắt mẹ tôi
Gió mát gượng chiều buông xuống
Vạt áo vội lau nước mắt chực trào.
Cây ổi sau nhà trái chưa kịp chín
Sợ một ngày đứt gió quăng sông
Xuân chưa tới hè về rụi lá
Chiếc giường tre khô két mọt lầm.
*
Làng có anh Pheo cụt chân xuất ngũ
Chim khách bay cuống quýt ngọn tre
Gió trên thềm các ngôi nhà vỗ sóng
Tàn nhang may rủi ban thờ.

Có thêm đàn ông gió đồng bớt trống
Râm bụt trước nhà sáng sáng đỏ hoa
Vại nước ngoài vườn trong veo ánh mắt
Vợ anh nụ cười giấu áo nghiêng vai.

Gái làng qua nhà anh lén nhìn lối ngõ
Và âm thầm xoa ngực đêm đêm
Hương cứ toả gió qua ai biết
Sương muối bay cay đắng đời người.

CHUYỆN CỦA BỐN CÔ GÁI
Vợ anh Pheo:

Bồ kết vườn nhà trĩu trái
Có thể cả làng gội hết mùa đông!

Cô gái thứ hai:

Hãy buông rèm và đóng kín cửa
Đất đồng nóng dần lên.
Trời không gió sao phía nào cũng lạnh
Màu tóc tôi mưa nắng héo mòn.

Cô gái thứ ba:

Tôi sợ mùa hoa
U mê giấc ngủ
Nước lã gội suốt mùa cây cỏ
Để ngày kia mưa trắng tóc chiều.

Cô gái thứ tư:

Lá bàng khép tán
Hoa nắng sắp tàn
Chiếc gối mỏng vô tình vò nát
Chim nhỏ chết vì sa mạc chờ mong.

Đất làng là sinh cơ lạc quan hơi hiếm trong mảng thơ hiện sinh thân phận của Trần Anh Thái. Phải thế chứ! Phải có sự sinh, có chim hót, chim bay, hoa nở, dẫu vẫn có tiếng thở dài của đêm chưa đủ che đi giấc ngủ thì “Hãy gieo vừng bằng hạt giống của làng và đừng vội vàng thu hoạch khi nắng chưa lên. Tin rằng Bông hoa chết khi chiều sáng ra bật mầm nụ mới. Rất nhiều âm thanh tan ra và quần tụ. Làng giấu trong trái tim bao la khốc liệt âm thầm”.

Tôi không sợ dài, vẫn để nguyên bài thơ này vì cái thi vị hấp dẫn của nó.

Đất làng

KHÚC I

Thuở ấy vui buồn đổ lên mình đất
Đất hoá vào máu thịt sinh tôi
Trong đắng cay cạm bẫy
Mây bay lũ lượt đồng làng.

Chim chích choè sáng nào cũng hót
Cửa mở ra cho nắng đi về
Chị tôi bảo bao năm không nhớ
Trước đình làng chó đá gặm sương.

Ngày ấy biển là cánh đồng trước mặt
Hải âu bay trắng nắng mặt trời
Cha dậy trước lúc gà gáy sớm
Cây ổi bao mùa ngậm muối chậm nở hoa.

Có hôm đang trưa hè bất chợt
Mẹ lo giông bão vào nhà
Yên tĩnh thế mà mắt người dại sóng
Cha tôi về gió quái dịu đi.
Biển vừa gần vừa xa
Muốm tìm ngọc thì đào vào đáy cát.
Giữa mịt mù mưa rát
Lại mỗi ngày bình tĩnh nắng lên.

KHÚC II

Người ở biển ầm ào gió sóng
Cánh tay săn bão cuộn xoáy gào
Khi lên thuyền ngẩng nhìn trời biếc
Tóc nhuộm màu bất chợt nắng mưa.
Gió vẫn thổi triệu năm không cũ
Đất mỗi ngày sinh nở buồn vui
Bông hoa chết hoàng hôn nắng úa
Sáng mở đầu làm cuộc tiễn đưa.

Làng từ thuở khởi nguyên tăm tối
Cơn khát trôi trên lửa cháy vô cùng
Chẳng thành tro than
Mà thành chìm nổi
Đến một ngày muối mặn biển đông.
Vực nước nông sâu
Gió không đầu cuối
Chỉ có người làng biết gió ở đâu.
Đêm chưa đủ che đi giấc ngủ
Tiếng thở dài khép mở vòm khuya.

KHÚC III

Cỏ mọc
Không tên
Sóng rền
Đan vào yên lặng.
Sau chớp giật đường chân trời mở nắng
Đất lại xanh nuôi máu của mình.

Chiếc vương miện trên cánh đồng cổ tích
Đã bao phen bỏng rát mặt lư đồng
Chó đá trước sân đình đêm thức
Thương một đời kiếp tượng.
*
Cha tôi bảo:

– Hãy gieo vừng bằng hạt giống của làng và
đừng vội vàng thu hoạch khi nắng chưa lên.
– Sương muối và rắn rết còn ẩn mình đâu đó.
– Đã bao chàng trai chết khi mặt trời vừa sáng.
– Cứ mở toang cánh cửa nhà mình sẽ không còn
gì đe doạ. Gió biết cách tìm lấy lối ra.
– Đi biển nhớ nhìn vào đầu sóng.

KHÚC IV

Giấc mơ về ủ giữa rằm, lời hát xa xăm vọng từ vườn cũ. Những sóng lá gom thuyền trăng về bến, đêm đêm đậu giữa hiên nhà đầy nụ cười con trẻ. Tiếng nước chảy qua miệng gầu róc rách, sáng bình yên trong ánh nhìn bao ngày giông biển. Bóng cau già ngả xuống mặt ao, đo nông sâu số phận. Bông hoa chết khi chiều sáng ra bật mầm nụ mới. Rất nhiều âm thanh tan ra và quần tụ. Làng giấu trong trái tim bao la khốc liệt âm thầm.

Bài Hết chiều tả đến “đáy chiều” – chữ dùng của Trần Anh Thái thân phận nhỏ bé của người nông dân. “Phía chân trời cơn mưa vần vũ/Đổ xuống người đang cắt lúa đêm/Đêm úp xuống lưng – người úp vào bóng tối/Tiếng thở dài trút mặt đất đai”.

Hết chiều

Đã hết chiều
Những tia sáng trên cánh đồng vẫn còn lần lữa
Buốt lạnh chạm vào se thắt

Con sông chở hoàng hôn chiều nay không vỗ sóng
Bến đò in nắng xa buồn
Thửa ruộng nhỏ suốt đời mẹ ta đào xới
Vẫn còn nguyên gốc rạ lấm mặt người

Phía chân trời cơn mưa vần vũ
Đổ xuống người đang cắt lúa đêm
Đêm úp xuống lưng – người úp vào bóng tối
Tiếng thở dài trút mặt đất đai.

Cái đẹp không phải lúc nào cũng được nâng niu. Tôi nghe thấy tiếng than của Thuý Kiều ẩn trong Hoa xuyến chi. Buồn man mác.

Hoa xuyến chi

Hoa xuyến chi mọc bên đường
Tháng năm gió với bụi vương nát nhàu
Người đi qua
Người về đâu
Để hoa mãi với dãi dầu
Gió sương.

Viết về cha mẹ, thơ nào không cảm động. Bài thơ Trước mồ cha là thế thái nhân tình, là thân phận người. Cảnh tình ở đây cao xa rộng lớn, như núi, như biển. Bài thơ là đại biểu của những người con khi cha khuất núi. “Cha nằm hút cõi xa xăm/Hắt hiu nấm cỏ âm thầm nắng mưa”. Ba mươi năm trước, bối cảnh được khắc hoạ trong thơ. Bây giờ có lẽ khác rồi. Cũng là hiện diện tồn tại!

Trước mồ cha

Một mình con trước mồ cha
Chiều chưa xuống đã sương sa đầm đầm
Cha nằm hút cõi xa xăm
Hắt hiu nấm cỏ âm thầm nắng mưa

Thoảng như gió tự ngàn xưa
Bao nhiêu buốt lạnh đã lùa vào con
Đời người năm tháng mỏi mòn
Bao vinh nhục cũng chỉ còn hư không.
Cha nằm giữa cõi mênh mông
Hoàng hôn rơi giữa gió sông bời bời
Con đi qua những rộng dài
Trước mồ cha bỗng hóa loài cỏ cây
Trời xa thẳm tận cùng mây
Tháng năm nước mắt vơi đầy trần gian
Còn không bóng núi trăng ngàn
Trên mồ gió với nhang tàn ngẩn ngơ
Cõi đời cát bụi mưa mờ
Qua bao chìm nổi nào ngờ bể dâu
Dòng sông nước chảy từ đâu
Sóng ngàn năm mãi bạc đầu. Người ơi.

Riêng bài Hai người có cách của tượng trưng lãng mạn Pháp đầu thế kỷ 20. Dù lãng mạn, nhưng nói về số phận người, cũng là một gợi ý mỹ học. Bài thơ này cũng là ẩn số nhân vật trữ tình – hình tượng.

Hai người

Những số phận không sắc màu trang sức
Biển trùng thăm thẳm về đâu
Ký ức dầm dề biển thức
Hai người sóng lặng đêm

Giấc mơ dịu êm
Ai se sẽ lời ru xa vắng
Sương se se in lặng
Ấu thơ nhàu bụi nhân gian

Hàng dương xanh giấc mơ xanh
Trăng chới với cánh đồng biển biếc
Hai người giữa dòng gió xiết
Nước xanh nức nở hai bờ

Trôi đâu ánh mơ hồ
Sóng tan âm thầm trong cát
Rượu tràn ai rót
Sao trời ngất ngưởng lung linh

Ngày sang mặt trời vỡ sau lưng
Cơn khát cháy chiều hun hút
Hai người sóng hiu hiu
Cuối trời sương khói xiêu xiêu.

Ta đi cùng Trần Anh Thái với hành trình 40 năm thơ của ông gắn với Thời kỳ Đổi mới. Những sáng tác của ông, chỉ riêng thơ và trường ca, như Độc thoại trắng (thơ, 1994); Vọng trắng (thơ, 1996); Đổ bóng xuống mặt trời (trường ca, 1999); Trên đường (trường ca và thơ, 2004); Ngày đang mở sáng (trường ca 2007); Tự bạch (thơ, 2010); Mỗi loài hoa một mặt trời (hay Bão không đến từ biển) (trường ca 2015);…đã nói lên sức làm việc đáng nể của ông. Hiện sinh con người châu thổ trong thơ ông, là hiện sinh của tồn tại bất lực bản thể hồi cố, là tương quan lưỡng cực chính phản của hiện hữu, là trừu tượng tận cùng của con người nhỏ bé không điển hình,…

Là cô đơn và trống rỗng, của những người thường. Là chấp nhận. Là coi mình như là một đồ vật , bên những vô cơ, miễn mình hữu cơ tồn tại.

Có thể nói, thơ Trần Anh Thái là bài học của tồn tại, là tư tưởng về tồn tại, là tiếng nói của tồn tại!

Ảo giác , trong thơ ông, là hiện hữu thật, của hoạt hình. Cái thực ở đâu đó. Cũng là một ý tưởng mỹ học. Có một bờ bến nào đấy, có cái đẹp – trăng chờ, có hiện thực – ngõ nhỏ, có người – bàn tay, và có gió, có sương, có mây, cây cỏ. Hãy kéo thế giới ảo về thế giới thực. Thật không đơn giản!

Ảo giác

Gió xước mặt người
Hình nhàu sương khói
Bóng đi
Giấc mơ ở lại
Phía kia bờ vọng mờ mây.

Chơ vơ một giải trăng chờ
Âm thầm tìm về ngõ nhỏ
Ảo ảnh giăng giăng ngọn cây
Bóng còn chập chờn sóng cỏ
Gió về gieo trắng bàn tay.

Hà Nội, tháng 9/2025.

B.V.K