(Vanchuongphuongnam.vn) – Bảo rằng ông Phú không gần gũi với anh em trong nhà thì không đúng. Chính họ đã xa lánh ông, rồi cũng từ đó ông không muốn nhìn mặt họ. Ông cũng không băn khoăn lắm về điều nầy bởi ông đã nếm trải cái nhục khi nhờ vả họ. Điều khiến vợ chồng ông Phú buồn là hơn bốn mươi tuổi và lấy nhau hơn mười lăm năm vẫn chưa có được mụn con. Người xưa nói rằng “được hào của thì mất hào con và ngược lại”. Nhưng khốn thay cho vợ chồng ông, cả của cải và con cái ông bà đều không có.
Nhà văn Chinh Văn
Sau vụ tai nạn, may mà ông vẫn còn sống được, vẫn tiếp tục mưu sinh bằng nghề tài xế. Ông Phú không về quê để hưởng phần đất hương hỏa của cha mẹ mà vẫn ở lại Sài Sòn. Một căn nhà nhỏ ven kinh nước đen với vợ chồng ông là quá đủ. Vốn liếng dành dụm ngần ấy năm trời của vợ chồng ông đã dồn hết vào để mua được nó. So với nhà đất dưới quê thì căn nhà nầy nhỏ bé vô cùng, nhưng gia sản dưới đó giờ đã thuộc về cô em gái út. Là con trai lớn, lẽ ra ông được hưởng phần nào trong đó nhưng không hiều bằng cách nào, toàn bộ giả sản đã được cô em gái út đứng tên. Dưới ông Phú là hai đứa em trai nhưng cả hai đều theo gia đình bên vợ định cư ở nước ngoài. Ông thường mỉa mai gọi họ là Việt kiều rể.
Khao khát một đứa con đã trở thành điều bức bách trong cuộc sống của vợ chồng ông Phú. Nhưng làm sao để có con thì ông vẫn chưa có câu trả lời. Vật lôn với miếng ăn thì lấy đâu ra vài trăm triệu để thụ tinh nhân tạo?
– Anh nè, chị ba của em con đông và nghèo. Hay là mình xin của chị ấy đứa con. Em thấy bé Thơm dễ thương quá – Bà Mai vợ ông đã thủ thỉ tâm sự với chồng như vậy
– Em đã biết đứa con là quý giá thế nào đối với một gia đình. Anh chị không cho đâu.
– Anh cứ để em lựa lời dò hỏi và xin chị.
Rồi thì bé Thơm cũng được về ở với dì Mai. Nó được dạy gọi ông Phú và bà Mai là ba mẹ.Việc bà Hoa, chị vợ của ông Phú cho đi bé Thơm cũng tạo ra xung quanh nó bao nhiêu là câu chuyện bởi những người hay ngồi lê đôi mách ở vùng quê. Người thì bảo chắc bà Hoa bán con cho ai đó trên Sài Gòn do vợ chồng bà Mai giới thiệu. Có người lại nhẹ nhàng hơn:
– Cháu về sống với dì cũng như với mẹ thôi mà. Tội nghiệp vợ chồng cô Mai không con, con bé Thơm về trên ấy sẽ được cưng chiều nhiều lắm.
Mỗi người một ý thêu dệt. Chỉ có những giọt nước mắt của bà Hoa là hiểu hơn ai hết. Biết bao nhiêu lần bà đã khóc. Bà khóc vì thương đứa em gái mình cô đơn mỗi khi chồng nó lái xe cả tuần mới được về nhà. Nó sẽ ra vô thui thủi. Bà khóc khi nghe những đứa con khác nhắc mẹ đòi bé Thơm về. Con một bầy mà tách ra một đứa khiến chúng nhớ nhau và đòi bà phải mang về. Chúng có biết đâu chính bà cũng nhớ con quay quắt. Bởi thế, trong thời gian đầu, cứ mỗi khi chạng vạng tối bà lại nhìn về hướng Sài Gòn và khóc. Nghe người ta nói Sài Gòn ở hướng đó thì biết vậy và nhìn hướng đó mà khóc chứ cả đời có lần nào bà được đến Sài Gòn? Bà hình dung ra trên đó giờ nầy bé Thơm cũng đang khóc vì nhớ ba mẹ, anh em. Những ngày đầu, bà cứ liên tục gọi điện hỏi thăm em gái. Việc gọi điện nầy cũng lắm nhọc nhằn. Bà Hoa phải lén những đứa con để nói chuyện với dì Mai. Ở Sài Gòn, Mai cũng lén bé Thơm mà tâm tình với chị gái ở dưới quê. Cứ mỗi lần như vậy thì hai chị em đều khóc.
Thời gian cứ thế mà trôi. Nỗi nhớ được vơi dần thì sức khỏe lại yếu đi và tuổi già ập đến. Bé Thơm bây giờ đã là cô gái học lớp mười hai. Hơn sáu mươi tuổi, Ông Phú không còn lái xe đường dài được nữa, không ai thuê ông. Đã mấy năm nay vợ chồng ông sống bằng thu nhập ít ỏi của việc nhận giấy tiền hàng mã về để xếp thành cây hay dán những bao bì. Ông Phú thì chạy xe ôm bữa có bữa không. Ngoài giờ học, Thơm cũng dành hết thời gian cho việc làm thêm để giúp ba mẹ. Nó vừa thi Đại học và chờ kết quả. Biết phận nghèo nên nó chăm chỉ và học rất giỏi. Những giọt mồ hôi của ba nhỏ xuống khi chạy xem ôm cộng với những giọt lệ vui mừng của mẹ nhỏ xuống những tấm giấy khen cuối năm học chính là động lực giúp nó vượt lên tất cả. Tin chắc rằng nó sẽ được vào Đại học.
Về quê giỗ cha lần nầy, những tưởng ông Phú gặp lại hai đứa em Việt kiều thì không khí gia đình sẽ thêm vui cho dù là gượng gạo. Nào ngờ…
– Tui thừa khả năng giúp anh có cuộc sống đàng hoàng mà không phải làm gì. Thế nhưng nhìn anh già mà còn cực khổ để nuôi con của người ta thì tui không muốn giúp. Anh có muốn cực thì cứ cực một mình anh. Xét cho cùng, nó không là máu mủ gì của dòng họ nhà mình.
Trong cơn say, một trong hai người em Việt kiều của ông Phú đã nói như vậy. Không hiểu vì nghèo nên hèn hay vì bị em út lấn át từ bé nên ông Phú chỉ cười. Khó mà biết được nụ cười của ông lúc nầy chứa cảm xúc gì? Rồi bằng giọng nhẹ nhàng và chậm rãi, ông bày tỏ:
– Chú có ý giúp thì anh cám ơn nhưng không cần đâu. Anh vẫn sống đây mà. Anh rất hài lòng về đứa con không cùng huyết thống. Anh chấp nhận cực khổ vì nó. Biết đâu sau nầy anh sẽ …
– Anh ba nói đúng đó. Cả đời anh hai cực khổ chỉ là “quạ nuôi tu hú” thôi. Anh hai không biết mình đã già rồi sao? Để rồi xem!
Giọng cô gái út oang oang xen vào. Ông Phú không thể nói hết câu. Mấy đưa em, mỗi đứa đều giành nhau nói. Ông nhìn hết người nầy sang người khác. Ai tinh ý sẽ thấy ông thở dài và lắc đầu nhè nhẹ.
Bất chợt trời đổ mưa. Mùa nầy hễ cứ mưa là giông. Nước mưa tạt mạnh vào bàn rượu ngoài hiên mà họ đang ngồi. Thế là mỗi người một tay cùng dời bàn tiệc vào nhà. Câu chuyện cũng không thể tiếp tục vì tiếng mưa dội vào mái tole xối xả tao ra tiếng ầm ầm. Hơn nữa, những người đang say thì đã không nhớ vừa rồi họ đã bàn tán về chuyện gì. Câu chuyện vẫn được tiếp tục nhưng với nội dung khác và thỉnh thoảng rộ lên tiếng cười.
Sau giấc ngủ dài, ông Phú quay về Sài gòn bằng xe máy. Qua hơn ba tiếng chạy xe và có đoạn đường mắc nắng, có đoạn đường dầm mưa nên về đến nhà thì ông mệt như rã người ra.
– Con đậu Đại học Y Dược rồi nè ba !
Từ trong nhà, Thơm chạy ra dúi giấy báo trúng tuyển vào tay ba rồi giành đẩy xe vào. Bà Mai thì đứng trong cửa nhìn hai cha con. Tay bà cầm ly nước đưa cho chồng. Bà cười mà nước mắt cứ tuôn dài. Ông Phú chỉ nói được mỗi một câu bằng giọng nghẹn ngào:
– Con gái ba giỏi quá.
Đêm đó ông Phú không ngủ được. Giấy báo trúng tuyển của con được ông lót dưới gối nằm sau khi đọc đi đọc lại rất nhiều lần. Ông không ngủ vì buồn vui lẫn lộn và suy nghĩ miên man. Ngoài mùng muỗi cứ vo ve, trên vách thằn lằn liên hồi chắc lưỡi. Nhà bên cạnh lại vọng sang tiếng tắc kè đêm. Ông thiếp đi trong giấc ngủ nặng nề. Trong giấc mơ, ông thấy nhà ông không còn nghèo khó. Những tờ dollar địa phủ mà lúc trước vợ chồng ông bày ra đầy nhà để xếp lại thành cây biến thành những tờ giấy tiền thật sự. Niềm vui chợt tan biến khi những giọt nước từ mái nhà dột xuống kéo ông ra khỏi giấc mơ.
Dẫu dài lê thê nhưng thời gian cũng qua được sáu năm. Cuộc sống của vợ chồng ông Phú vẫn lặp lại điệp khúc khó nghèo. Chỉ có điều khác hơn là ông già đi nhiều lắm và Thơm bây giờ đã là Bác sĩ. Ông không còn chạy xe ôm vì chân yếu mắt mờ. Bà Mai thì vẫn làm công việc xếp giấy tiền vàng mã. Hai vợ chồng già lấy đó làm nguồn sống và làm niềm vui. Cũng may, ngoài thời gian làm trong bệnh viện, Thơm còn đi làm thêm ở phòng mạch của một bác sĩ nổi tiếng của quận nầy. Nếu ngày xưa Thơm là học sinh giỏi, sinh viên giỏi thì bây giờ cô là một bác sĩ giỏi, dẫu mới ra trường. Nợ nần cũng được trả xong. Cuộc sống của gia đình được nâng lên từ từ nhưng sức khỏe ông Phú thì suy sụp quá nhanh. Thuốc men của đứa con là bác sĩ vẫn không giữ ông được ở nhà. Ông nhập viện cấp cứu.
Hơn ai hết, ông Phú biết rõ bệnh tình của mình. Thơm đã hình dung ra mọi thứ. Thời gian đối với ông Phú bây giờ chỉ còn là đếm ngược.
– Ba có muốn con điện báo tin để gọi mấy chú về?
– Thôi khỏi đi con. Mua vé máy bay gấp thì tốn tiền nhiều lắm. Ba không muốn làm phiền mấy chú.
Nghe cuộc đối đáp giữa cha và con, cũng là giữa bác sĩ và bệnh nhân khiến bà Mai nấc lên liên tục. Bất giác, bà nắm chặt tay chồng. Ông Phú cũng động viên vợ bằng nụ cười mà vành miệng không tròn. Hai ngày sau, ông ra đi trong thanh thản.
Ngày giỗ đầu của ông Phú trùng với dịp hai chú Việt kiều về nước. Vừa thắp nhang cho anh trai xong thì lại quay sang trách móc chị dâu:
– Mẹ con chị tệ thật, anh hai bịnh như vậy mà chị không điện qua để tụi tui gởi tiền về chạy chữa. Lẽ ra anh hai chưa tới số đâu.
– Đâu ai nghĩ anh Phú ra đi nhanh như vậy. Hơn nữa, con Thơm có hỏi ý anh ấy về việc cho mấy chú hay nhưng anh không muốn làm phiền. Mẹ con chị đâu dám cãi.
– Lại là con Thơm! Nó đâu phải là máu mủ của anh ấy. Nó là đứa con xin về nuôi. Nó có ăn học sao không biết câu “máu chảy ruột mềm?” Dẫu có biết thì nó có thương xót gì đâu? Đúng là khác máu tanh lòng. Hai đứa tui mới là ruột thịt, mới là anh em cùng huyết thống với ảnh.
Bà Mai lại khóc nấc lên. Bà khóc vì nhớ thương chồng hay khóc cho những tiếng “ruột thịt” và “huyết thống”. Đây là những chữ thiêng liêng vừa bị xúc phạm nặng nề?
Từ nhà sau bước lên, Thơm ôm lấy mẹ và lau nước mắt cho bà. Cô không nghe được gì đó là điều may mắn. Thấy mẹ khóc, Thơm bước đến vỗ về an ủi :
– Ba bây giờ đã thanh thản rồi, mẹ đừng khóc hoài, ba không muốn thấy mẹ buồn đâu. Cả hai chú đây cũng vậy.
Rồi quay sang hai chú, cô lễ phép mời:
– Con dọn đồ cúng xuống để cả nhà mình cùng ăn cơm hai chú nhé!. Ba con mà thấy bữa ăn gia đình ấm cúng thế nầy chắc là vui lắm đó.
Câu nói ấy lẽ ra được tán thành nhưng không hiểu sao mọi người vẫn cứ lặng im. Bớt chợt, một luồng gió thổi vào từ hướng dòng kinh. Nước dưới kinh nầy đen ngòm, đặc quánh và có mùi như xua đuổi bất kỳ ai có ý định đến gần. Trong suốt bữa ăn, hai chú Việt kiều cứ tỏ ra thương tiếc anh trai. Bà Mai thì cứ sụt sùi. Riêng Thơm thì đã lờ mờ hiểu ra nguyên nhân khiến bữa cơm không vui vẻ. Dù vậy, cô vẫn gần như vô cảm vì từ lâu cô đã quen với cách nhìn nhận của gia đình bên nội: Cô chỉ là đứa con không cùng huyết thống.
C.V