Triền đê hoa gạo cháy màu nhớ mong – Thơ Vũ Xuân Hồng

1307

Nhà thơ Vũ Xuân Hồng

Xuân Yên Tử

Đường Tùng cõng nắng tinh khôi
Mây bay dẫn Khách
Về nơi
Cửa Thiền

Non cao bậc đá treo nghiêng
Xôn xao rừng Trúc
Linh thiêng
Tháp chùa

Suối reo vọng tiếng người xưa
Hạt sương níu vạt
Chuông chùa
Thẳm sâu…

Giác Tâm, hoan hỷ, thỉnh cầu
Cỏ non hòn cuội
Nhuốm mầu
Chân kinh…

Đá thiêng Yên Tử

Đá thiêng thấp thoáng dáng người
Trầm tư đứng giữa
Đất trời
Mênh mông

Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông
Gửi trong im lặng
Nỗi lòng
Trần gian…

Trúc reo trước gió đại ngàn
Bao nhiêu câu hỏi
Mênh mang
Giữa đời

Đâu là đá đã hoá người
Đâu người hoá đá
Luân hồi
Trong ta !

Mối tình hạ Long

Đá yêu hoá cặp uyên ương
Mối tình trinh bạch
Soi gương
Giữa trời

Sóng xô bão táp chẳng rời
Chụm đầu hẹn ước
Suốt đời
Bên nhau

Chao nghiêng xao xuyến hải âu
Mây bay nhớ cánh
Buồm nâu
Cuối trời…

Đá yêu chẳng nói bằng lời
Thả bùa mê cả
Biển trời
Yêu nhau…!

Đất quê

Bùn non sánh giọt mồ hôi
Trộn máu, nước mắt của người nông dân
Khổ đau muôn kiếp phong trần
Thác gửi vào đất mà thành hồn quê…
Vươn mình vững chãi thân đê
Nối vòng tay chắn bốn bề bão giông
Vắt mình nuôi lúa đơm bông
Hoa thơm trái ngọt đất không phụ người
Ngát bùn sen nở hồng tươi
Hội làng hoa gạo vẫn ngời tháng ba
Bùn vương thơm áo mẹ cha
Hồn quê, hương đất gọi ta trở về…

Em đi lấy chồng

Sang sông em bước theo chồng
Ngẩn ngơ bao gã đàn ông trong làng

Cau sai quá lứa bẽ bàng
Trăng khuya lẻ bóng, đò ngang thoáng buồn…

Tuổi thơ đồng đất, mạch nguồn
Lớn trong câu hát chỉ luồn vào kim

Gốc đa bao cuộc trốn tìm
Giếng làng thèn thẹn liếc nhìn bóng nhau…

Em đi cách biệt sông sâu
Buồn vui duyên phận làm dâu xứ người

Đồng xanh anh vắng nụ cười
Nong tơ, tằm cũng lại lười ăn dâu!

Hội làng trống giục canh thâu
Triền đê hoa gạo cháy màu nhớ mong…

Mẹ tôi vơ vạt cải ngồng
Đem phơi lấy… hạt để giồng… vụ sau !