Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới

Loading

                                                                                                       BÙI VĂN KHA

(Vanchuongphuongnam.vn) – Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.

Tập thơ Không gì thực bằng giấc mơ của tác giả Hoàng Đăng Khoa.

Buồn như Hữu Loan màu sim bi thương sắc hoa thành máu tím. Buồn như Trần Dần “Tôi khóc cho những người bay không có chân trời/ Và khóc cho những chân trời không có người bay”.

Dẫn ở trên, cái buồn ấy vẫn là cổ điển hỉ nộ ai ái ố lạc dục. Tôi có đọc nói thương là khi người tuổi hai mươi ngã xuống, chứ cũng khác nhiều với đau, hay xót. Buồn ấy, sau này thành ước lệ, tượng trưng, dramatic.

Kịp đến những năm 20 của thế kỷ 21, 100 năm sau, lại có một sự việc buồn, rất khác, không bàn nêu trạng thái, không chú ý tâm cảnh, không ấn tượng hình ảnh – nhưng đặt vấn đề mỹ cảm. Đó là nỗi buồn Hoàng Đăng Khoa mang tên: Chậm nhanh gì buồn chẳng như nhau

Chúng mình cách ly nhau đã mấy mùa

Đâu phải đợi đến mùa covid

Chúng mình từ lâu tự bịt miệng mình thin thít

Chung ngôn ngữ mà không cùng tiếng nói

Có cất lời mà chẳng nghe được nhau

 

Bẩm sinh niềm đau

Chung thân mang vác

Nhưng niềm đau người khác

Người này không vô can

Bài thơ tràn hàng

Không viết hoa mở đầu

Không chấm cuối

Như buồn tràn tuổi

Như bài kinh từ khởi thuỷ đến tận thế

Chúng sinh vừa ngủ gật vừa tụng

 

Thơ cũng là văn bản nhật dụng

Dẫu là tinh của chữ là hoa của lời là lệ của đời

Như rượu kia

Rỉ ra từ mắt gạo

Để tê ran từng cái uống

 

buồn sẽ theo chúng mình chết xuống

rồi lại phục sinh

lại vừa có nghĩa vừa vô nghĩa như câu kinh

gà vừa ngáp vừa gáy

người vừa quờ tràng hạt vừa lẩm bẩm

 

đang mùa sống chậm

mà chậm nhanh gì buồn chẳng như nhau

Tôi gọi đây là Nỗi buồn Bản thể tân khái niệm. Gọi thế, vì không nên đưa nội dung cắt nghĩa chủ ý, chỉ tràn ngập đối tượng, như tôn giáo, chỉ cần đức tin, còn lời kinh thì cũ đến lẩm bẩm ngủ gật. (Kinh là lời, dù Kinh nào cũng thế!).

Ở bài thơ này, nỗi buồn được khẳng định là vô ngôn tính. Nhưng sâu xa, Hoàng Đăng Khoa trình bày một mỹ cảm mới. Nỗi buồn là một trạng thái tình cảm, là một trong những khái niệm của tâm lý học và mỹ học, gắn với con người, với động vật, thậm chí sinh vật. Đấy là khoa học. Riêng với nghệ thuật, nhất là nhạc – hoạ – thơ thì buồn gắn với giới tự nhiên như là cơ hữu. Nỗi buồn cảm xúc ấy được cụ Nguyễn Du đỉnh cao “Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ”, đến Hoàng Đăng Khoa, đã “cũ mèm” rồi (chữ của Thanh Thảo – Bài ca ống cóng, cũng một ý này). Lời kinh đã cũ, nhưng con người không bỏ được, vẫn “Tay lần tràng hạt, miệng nam mô” – (Nguyễn Bính). Như con gà trống – Đả kê minh, theo bản năng, mà lạ vừa gáy, vừa ngáp, thì cái buồn chán có lẽ đã đến lúc phải “Buồn ơi, chào em ” (Francoise sagan) rồi.

Cấu tứ chủ ý chặt chẽ đến nỗi đây là tuyên ngôn, là chủ đề của tập thơ Không gì thực bằng giấc mơ của Hoàng Đăng Khoa. Tôi suýt bị ông mị hoặc mà cho rằng tên tập thơ là chủ đề tập thơ này, nào biết đâu trình một lối mới về ngôn từ, về mỹ cảm, về chí hướng nâng cao nhưng trở về thơ thuở Đường Tống Nguyễn Du Thơ Mới của thế kỷ 21 mới là đường đi của Hoàng Đăng Khoa. Thơ ông đã khác với thơ thuở 1986 – 2016 biện luận nhân văn. Thơ ông là đương nhiên nhân văn để trình bày bản thể!

Tôi trích nguyên một bài thuộc bài rất hay trong thơ ông, và trong tập này:

Sơn bất linh

Cám ơn người đưa ta đến đây

Và im lặng cùng ta đến cạn ngày

 

Cây mùa trụi lá

Như những bàn tay chới với vẫy cao xanh

Như ta mười ngón trắng

 

Lũ thiêu thân

Quẩy tung cột sáng

Camera một mắt thản nhiên nhìn

Ta ở đấy thiên nhãn còn không thấy

 

Những con chim

bay đêm vào hun hút

bầy đàn mà lầm lũi cui cút

thân xác không mang vác nổi linh hồn

 

Mật Sơn

cà phê thì vẫn đắng

Chí Linh cũng chẳng có gì thiêng

bây giờ cuối tháng giêng

chưa kịp chợp mắt sẽ là tháng chạp

nòng nọc bơi quẩn đứt đuôi thành ếch ộp oạp

ngơ ngác một đời gọi mẹ đến tàn hơi

 

núi vời vợi

lên đến đỉnh chạm mênh mông khoảng trống

Đây là cuộc tự vấn giữa tồn tại và ý niệm. Điều này xuyên suốt trong thơ Hoàng Đăng Khoa.

Có lẽ đây là một trong những bài thơ thuộc tốp đầu tuyển chọn của thơ bây giờ, có tầm rất lớn. Ở đây có cả truyền thống nguồn cội, cả phong thần phong thuỷ, cả câu chuyện xã hội, cả khát vọng của một trạng huống ở tầm trên cao. Hy Mã Lạp Sơn của Xuân Diệu : “Ta là một, là riêng, là thứ nhất”, “Chào 61 đỉnh cao muôn trượng” của Tố Hữu là nói thời kỳ giai đoạn. Hoàng Đăng Khoa là muốn nói đến vị thế của người Việt Nam bây giờ, cũng có cả cơ hội và thách thức trong đó. Bài thơ này còn có tên khác là Linh Sơn, tác giả đổi lại, chắc tránh trùng tên với Linh Sơn của Cao Hành Kiện. Bài thơ hoàn toàn là địa danh, nhân vật, cảnh tình Việt Nam, gắn với Côn Sơn Chí Linh. Từ một biểu tượng để nâng lên một tư thái biểu tượng nhân sinh, là kéo thế giới cao nhiên: thế giới Mẫu, là Quan Âm Đức Mẹ nhân bản nguyên sinh tiến hoá.

Cách tổ chức nghệ thuật của Hoàng Đăng Khoa cũng rất mới. Thơ ông phi lô gic nhưng không phi lý. Những hình ảnh và nhân vật trong thơ gọn gàng, cô đọng và ngụ ý. Có câu thơ như một bài thơ, ví như “và im lặng cùng ta đến cạn ngày” – (Sơn bất linh), “đêm huyền linh/ một người nằm/hay bóng người từng nằm” – (Thư phòng), “loài người tiến hoá khi tách khỏi đàn bầy/ nhưng chẳng có con người trưởng thành nào là cá thể” – (Cảo thơm), “cây vô ưu/ hàm ơn nở đoá buồn hiu cả đời” – (Thơ khó đặt tên),…

Những bài thơ dạng biện luận cũng rất thú vị, kiểu như cặp hỏi xoáy đáp xoay trên truyền hình VTV1. Đó là các bài Ngẫu vấn, Nơi chùa văn, Hỏi chuyện các loài cây,…

Những từ tả nỗi buồn, cô đơn, trống trãi cũng mang thêm nhiều sắc thái mới vào ký tự. Ta đọc trong Khải thị là lối thơ tượng trưng tỷ dụ những điều tưởng khác biệt, nhưng đặt ở nguồn cội chúng sinh, lại là vạn vật đồng đẳng.

Khải thị

có phải tại con én sổ bẫy hốt hoảng bay về cuối trời

mà mắt ta ngơ ngác một đời hoang vắng

 

có phải tại đồng trưa hang cua con rắn nằm chầu

mà triệu đêm sâu ta rùng mình như giấc trẻ

 

có phải tại con ong cánh lộng vẫn xây tổ miệt mài

mà ta nỗi nhà cứ đầy lên dọc dài phong du hồ hải

 

có phải tại con ếch xanh

                                tự đồng hoá màu u dật trên tàu chuối

mà ta đeo đuổi sự khác biệt khoáng hoạt tự do

 

có phải tại núi đồi mờ tỏ gần xa

mà ta thiết tha những cuộc chạm gặp và phóng vượt

 

hết bài thơ hay là dư ba

hết mình sẽ là mình lạ

 

Ta bắt gặp trong Tháng ba Hà Nội là đầy tâm trạng tự cảm. Đừng bắt mọi người đồng ca tụng ca khi họ riêng tư. (Tôi phải nói rõ ràng để hiểu chỗ cá nhân individual, còn khi bước vào dàn Thánh ca hoặc các bài ca hùng tráng cộng đồng, thì vị trí và vai trò sẽ khác).

Tháng ba Hà Nội

Sấu phố Phan Đình Phùng đầu chụm vào nhau

Tâm bất tương phùng câm lặng niềm riêng đau

 

Hoa xoan đường Hồng Hà phơi hai màu trắng tím

Thuỷ chung đến trống huơ rỗng hoác con tim

 

Cây gạo hồ Gươm mặc cảm lạc chỗ đứng

Lừng khừng lúng túng tứa từng bụm hoa đỏ lựng

 

Hàng sưa đường Cổ Ngư xưa thưa lá

Trắng vun dày lên những tay hoa

 

Những quả dâu tằm phố nhà binh úp chồng trên thúng

Thương tích gì mà toàn thân máu úng

 

Lũ chim công viên Hoà Bình huyên thuyên đấu khẩu

Thi sĩ Pushkin tay bút tay sách độc tấu

 

Tiệm cà phê mở tràn

Không đủ cho thực khách ngồi lê chờ mãn hạn

 

Ai tuyên thệ

Thì mắt cậu tiêu binh buồn vẫn thế

Rời rạc, không có liên hệ biện chứng. Bài thơ luận về một siêu hình ngoại diên của quan hệ sự vật hiện tượng.

Tôi xin kết bài viết này bằng bài thơ Không gì thực bằng giấc mơ. Đây là bài thơ ẩn dụ phản chính (không phải là vè nói ngược dân gian, kiểu “Bao giờ cho đến tháng ba/ Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng”, mà đặt các đoạn luận không logic).

Không gì thực bằng giấc mơ

có mùa không đông vẫn lạnh

có chỗ không góc vẫn khuất

 

cuốn sách bị bỏ quên trên giá

lấm lem mình mẩy đồng trinh

chiếc áo trắng tinh

không người mặc ố nhàu hốc tủ

 

có sông không trôi mà ngủ

có trứng không nở mà ung

có ngôi sao thình lình rụng

có đom đóm thoi thóp thở ánh sao

 

có bảo tàng mở không ai vào

có thư viện giấu tiếng chuông tu viện

có đồng xám én run cầm cập liệng

có lối không bàn chân ngập cỏ may

 

cây ngày mai mọc cuối đêm nay

mầm hạnh phúc bao giờ mới nảy

 

đồi Golgotha còn vương máu Con Đức Chúa Trời

động Thiên Đường lệ đá cô triệu năm chưa ráo

 

trong màn sống hư ảo

không gì thực bằng giấc mơ

 

người tình như bài thơ

đọc một đời không hết

Làm tôi nhớ đến sự tiếp nối kỳ diệu với “Uống xong, lại khát là tình” của Xuân Diệu không phải thời Thơ Mới 1936, mà là thời Tập thể hoá 1960. Tình nó lạ nhưng quen, kết cho hư ảo (thế giới khác, ta chưa trực quan không phải thế giới ảo trong game, chỉ giao nhau một phần). Bài thơ này chỉ là một gợi ý suy tưởng những cái tưởng vậy, nhưng luôn có những triền ngoài, có mặt không thể định lượng, có cái tột cùng của lãng quên, thiên lự.

Cuộc sống là thế, có đơn nhất và phổ biến, có đứng yên và vượt qua. Thơ Hoàng Đăng Khoa giúp ta từ thơ soi lại cái nhìn, để mà tin thơ hơn, để yêu một cây đời tươi xanh không hết!

Hà Nội, tháng 11/2025.

(Đọc: Không gì thực bằng giấc mơ, tập thơ, Nxb Hội Nhà văn, H, 2025)

B.V.K