(Vanchuongphuongnam.vn) – Ở cái tuổi gần đất xa trời, ông Tư Đang vẫn chưa thể quên những ngày tháng ấy. Nó khắc vào quá khứ của ông như một nhát dao chém vào thân thể gầy còm. Nhớ lại thì ông kinh khiếp lắm vì vừa xót xa vừa tủi hổ, kể cho con cháu nghe thì chúng xem như đang nghe cổ tích mà kết thúc không có hậu.
Ảnh minh họa, nguồn internet
Chiến tranh đã đi qua, chưa hưởng trọn niềm vui thì nạn mất mùa đói kém tràn tới vùng nầy. Làm sao ông quên được những ngày của năm Mậu Ngọ 1978?. Đồng ruộng quê ông vẫn bạt ngàn nhưng đó không phải là màu xanh mơn mởn mà là màu úa vàng của những đám ruộng héo khô bởi sâu rầy tàn phá như đại dịch. Không như mỗi sáng trước kia, thay vì từng đoàn người lũ lượt kéo ra đồng thì giờ đây họ kéo lên rừng. Mỗi người có trong tay một cái bao lớn, họ vào rừng nhặt nhạnh những ngọn rau, chiếc lá. Rau muống, rau má hay bất cứ lá rừng nào có thể lấp đầy cái dạ dày lâu ngày chưa thỏa mãn. Phần lớn họ là phụ nữ, trẻ em, bởi đàn ông trai tráng đã bỏ làng ra đi tha phương cầu thực. Trên những chiếc ghe cũ kỹ là giường, ván, tủ, bàn, thậm chí cả những cây cột gỗ được tháo rời ra để cánh đàn ông chèo suốt ngày đêm qua sông Tiền, sông Hậu hướng về Cà Mau đổi lấy miếng cơm. Cũng không ít người đến đó bán sức lao động để đào ao, sửa vườn…rồi nhận lấy những đồng tiền mặn chát mồ hôi.
Vào những ngày tháng đó, ông Tư Đang còn độ tuổi trung niên. Ông không bỏ làng đi bởi nhà ông còn mẹ già và đàn con nhỏ. Hơn nữa, nhà ông cũng không có đồ đạc gì mà chở đi đổi lúa. Thôi thì cứ ở lại nhà mà vơ vét chút nguồn sống còn sót lại của đồng ruộng quê mình.
Ngồi tựa lưng vào bờ ruộng trong cái nắng gay gắt của mùa hè, ông dõi mắt ra xa. Ngoài kia, lũ trẻ đang ồn ào rượt đuổi những con vịt hoang. Gọi là vịt hoang vì không biết đó là vịt của ai. Trước đó, mỗi nhà đều mua về vài ba chục con để thả vào ruộng của mình cho chúng diệt sâu rầy rồi bỏ luôn ngoài ruộng. Người còn không có gạo ăn thì mang vịt về nhà rồi lấy gì nuôi chúng?. Giờ thì chúng đã lớn lên theo sự tàn lụi của ruộng đồng.Tiếng reo hò của lũ trẻ đã kéo ông về thực tại. Trưa lắm rồi, ông phải về thôi. Bằng những bước liêu xiêu, ông đi vào trong xóm.
Lần thứ hai ông ngồi nghỉ mệt là ở quá bà Tâm. Phải giàu trí tưởng tượng lắm mới hình dung được đây là cái quán. Khoảng trống giữa hai gốc dừa là mương nước đen được che bằng những tấm lá dừa nước cong queo. Trên đó là bốn trụ tre khẳng khiu chống đỡ tấm vạt tre rệu rạo. Bà Tâm bày ra đó một rổ khoai lang. Chẳng biết gọi đây là củ khoai có đúng hay không, vì thực chất đó chỉ là những rễ khoai hơi to một chút. Năm ba cái như vậy được xâu vào nhau bằng một cọng que dừa. Trong rỗ khoai là những xâu như vậy. Cạnh đó là vài nải chuối nửa thâm đen, nửa héo khô. Sơ sài như vậy đó nhưng có sức cuốn hút mãnh liệt đối với cái bụng lép kẹp của ông Tư Đang. Bà Tâm đang ngồi phe phẩy chiếc nón lá cũ để quạt thì ông bước vào.
– Lâu quá không thấy anh Tư ghé quán em. Anh ăn khoai hay ăn chuối?. Giọng bà Tâm đon đả.
Thật lòng mà nói, không chỉ là khoai hay chuối mà lúc nầy nếu có thêm bất cứ thứ gì ăn được ông cũng có thể đưa vào cái bụng mệt mỏi kia một cách dễ dàng. Nhưng sáng nay ra đồng gặp được người chủ ruộng mà ông làm thuê hôm trước. Họ trả tiền công cho ông chỉ có mười đồng. Ông cần phải tính toán để gói gọn trong đó nào là gạo và tương, cà, mắm, muối. Ông không suy nghĩ được lâu bởi dạ dày réo lên và nước bọt ùa về.
– Chị bán cho tôi hai xâu khoai.
Vừa nói, ông vừa với tay bốc lấy. Cái bụng đói như thúc giục nhanh lên nhưng cái tay cứ run run tỉ mỉ lột từng miếng vỏ khoai. Ông cẩn thận đặt những miếng vỏ khoai trên tấm lá chuối lót xâu khoai. Bẻ từng miếng nhỏ cho vào miệng, ông cảm nhận nó ngon hơn mọi món ngon vật lạ mà ông đã từng ăn. Chỉ vài câu trò chuyện bâng quơ với bà Tâm thôi mà hai xâu khoai kia chỉ còn là những miếng vỏ.
– Anh Tư cứ ngồi chơi, em vào nhà lấy nước cho anh uống.
Nói rồi bà Tâm nhanh chóng bước đi.
Còn lại một mình, ánh mắt ông Tư Đang hướng vào nải chuối, đảo qua rổ khoai rồi dừng lại bên đống vỏ khoai bởi những thứ kia ông không dám mua ăn. Ông chợt nghĩ, trong mấy tháng qua gia đình ông ăn khoai luộc thế nầy có bao giờ lột vỏ. Hơn nữa, vỏ khoai cũng đã được bà Tâm rửa sạch rồi mà. Cơn thèm thuồng không cho ông được suy nghĩ lâu hơn. Tranh thủ khoảng thời gian bà Tâm đi vào nhà, ông nhón tay bốc những miếng vỏ khoai cho vào trong miệng và nhai một cách vội vàng. Nó cũng thật là ngon.
– Anh Tư vừa ăn thêm xâu khoai nữa à?
Đang nhai ngấu nghiến và cố nuốt cho nhanh, nghe bà Tâm hỏi, hàm ông Tư như cứng lại. Ông ậm ừ tiếng “dạ” nghe như một tiếng rên. Ly nước bà Tâm mang ra ông không động tới. Với ông lúc nầy, không thứ nước nào có thể đẩy trôi cái nghẹn trong cổ họng ông. Ông giục bà Tâm tính tiền khoai để còn chạy trốn chính mình.
– Ba xâu khoai là một đồng rưỡi anh à.
Mồ hôi ông lại tuôn ra, tay ông lóng ngóng móc tiền ra trả.
Bước ra khỏi quán bà Tâm, ông bước đi như kẻ mộng du. Suy nghĩ và lương tâm của ông đang đánh nhau bằng những đòn chí mạng. Ăn hai xâu khoai lúc nầy là một sự xa xỉ khi vợ con ông đang đói. Ăn vụng luôn cả vỏ khoai là sự bần hèn đến đê tiện. Vì sĩ diện, ăn hai xâu khoai mà phải trả tiền cho ba xâu là oan uổng quá. Hết tiếc rẻ rồi đến xấu hổ, sau cùng là sự tủi thân. Chính cái đói đã hủy hoại ông cả hình hài lẫn nhân cách. Miếng vỏ khoai như còn nghẹn lại trong cổ họng ông và nước mắt ứa ra. Đầu óc ông lúc nầy vang lên một thứ tạp âm nhưng nổi rõ hơn cả là câu văn của Nam Cao mà đã có lần ông đọc được trong truyện ngắn “Một bữa no”. Nó cứ lặp lại, cứ ong ong, cứ nhoi nhói :
“Chao ôi! Nếu người ta không phải ăn thì đời sẽ giản dị biết bao?”
C.V