Hai lần khóc – Truyện ngắn Lê Phương Trí

Loading

(Vanchuongphuongnam.vn) – Chị khóc. Nước mắt cứ tự nhiên tuôn xuống. Chị không thể nào kìm giữ được. Hai mươi mốt năm trôi qua rồi, chị mới lại khóc…

Ảnh minh họa. Nguồn internet

***

Tay dắt đứa lớn, tay ẳm đứa nhỏ, chị vừa đến đầu hẻm thì thấy lố nhố người trong xóm ùa về phía chị. Bà Năm la lớn: “Thằng Tấn bị xe đụng chết rồi, Kim ơi!”. Chị ngất đi không biết gì kể từ đó. Khi chị tỉnh lại, mọi thứ đã được bà con lối xóm chuẩn bị sẵn sàng. Chị chỉ có việc ngồi cùng hai đứa con trước hòm chồng  cho người khác quấn khăn tang lên đầu. Suốt những ngày đám tang chồng, bà Năm ở cạnh nhà chị lo toan, sắp xếp, kể cả tiếp khách thay chị. Chị như người vô hồn, ai bảo làm gì thì làm theo. Nhưng chị không khóc. Không một giọt nước mắt nào rơi ngay cả khi đưa anh vào lò thiêu, ngay cả khi đem tro cốt anh về nhà.

Một tháng sau khi chồng mất, thằng con lớn vào lớp 1. Chị đến trường xin cho con học. Chị vét hết tiền để mua tập sách, đồ dùng học tập cho con. Về đến nhà, chị bật khóc. Chị khóc mãi. Hai đứa nhỏ nhìn chị khóc theo. Chị khóc vì thấy bế tắt trước tương lai của ba mẹ con. Chị làm gì đây để nuôi con ăn học đến trưởng thành. Hai đứa nhỏ cũng òa khóc theo mẹ.

Ba mẹ chị mất sớm, chị cố bám víu ở làng quê nghèo khổ nhưng cũng không ở lại được vì không có một tấc đất để cấy cày. Chị lên thành phố phụ bán quán cà phê. Ở thành phố này, chị gặp anh Tấn rồi nên vợ nên chồng. Anh Tấn cũng cha mất sớm, mẹ già bệnh tật. Lấy anh xong thì chị lại có thai. Thai con so hành chị dữ dội, má chồng lại bệnh nặng, chị đành nghỉ làm ở nhà vừa chăm sóc mẹ chồng vừa dưỡng thai. Cũng may, anh Tấn là thợ điện của một công ty. Anh có tay nghề giỏi nên nhận sửa chữa điện thêm ngoài giờ làm việc. Vợ chồng anh cũng đắp đổi qua ngày. Mẹ chồng mất khi chị vừa sinh thêm đứa thứ hai. Chị dự định con gái nhỏ được hai tuổi sẽ gửi nhà trẻ rồi kiếm việc làm. Vậy mà…Chị đã nghĩ đến cái chết, chết là hết, là chấm dứt mọi lo toan, muộn phiền, đau khổ nhưng nhìn 2 đứa nhỏ ôm cứng lấy chị, khóc cùng chị. Chị nghĩ phải sống. Chị ôm hai con vào lòng rồi tự hứa với lòng sẽ không khóc nữa.

Chị tìm việc làm nhưng với hai đứa con nhỏ khó tìm việc cho phù hợp. Phụ bán quán thì đi sớm về khuya, ai trông con. Làm công nhân xí nghiệp thì thêm giờ tăng ca, ai đưa đón con…Chị lần lượt bán những gì có giá trị, kể cả đôi bông bằng vàng duy nhất mà chị được anh tặng ngày chị đồng ý về làm vợ anh. Một lần đưa con đến trường, chị được biết trường con chị học cần nhân viên phục vụ. Chị nghĩ trường gần nhà, con học thì mẹ làm, đưa đón con cũng tiện lợi. Mình xin làm tạm, có việc nào nhiều tiền hơn chị sẽ xin nghỉ. Chị xin vào làm và được trường nhận. Với tính hiền lành, thật thà, siêng năng, thầy cô, học sinh và cả phụ huynh đều yêu quý chị. “Kim ơi!”, “Chị Kim ơi!”, “Cô Kim ơi!” được gọi mỗi ngày. Chị xem trường như nhà. Chị làm gọn gàng, sạch sẽ từ văn phòng đến lớp học, từ sân trường đến nhà vệ sinh. Nhận chổi quét, chị dùng dây cột xiết lại cho chắc chắn hơn để cọng chổi không bị rơi rụng, xài bền hơn. Cán ki hốt rác gãy, chị lấy những khúc ống nước nhựa bỏ trong kho chế thành cán ki thật chắc chắn. Cây lau nhà hư, chị sửa đến khi nào không dùng được nữa chị mới xin cấp cây mới,…Chị nghĩ những việc làm ấy quả là bình thường với các bà nội trợ lo toan, vén khéo. Thế mà lần họp nào, chị cũng được khen là “có sáng kiến” tiết kiệm cho nhà trường làm chị mắc cỡ cứ cúi mặt. Làm việc ở trường học, biết được hoàn cảnh của chị, đứa lớn rồi đến đứa nhỏ của chị vào học chẳng những được miễn giảm mà còn được đề nghị học bổng. Các xuất trợ cấp khó khăn, công đoàn trường cũng ưu tiên cho chị. Làm ở trường, chị lượm những thứ bán ve chai được để bán kiếm thêm chút tiền chợ. Thấy thế, thầy cô trong trường cũng cho chị sách vở cũ, có thầy cô còn chở từ nhà sách, báo, tạp chí định vứt bỏ vô trường cho chị. Thời gian trôi, mới đó mà hơn hai mươi năm chị làm việc ở ngôi trường này. Hai đứa con chị cũng đã trưởng thành, có việc làm ổn định. Đứa nào cũng nói chị nghỉ làm, ở nhà an dưỡng nhưng chị đã quen làm việc suốt ngày, chị nói với con: “ở không, bệnh chết” và đến trường với chị còn là niềm vui.

Nghề giúp việc nhà lên ngôi, nhiều người trong xóm rủ chị đi làm. Tiền tính  theo giờ, công việc có giới hạn, tiền nhiều, hôm nào mệt thì nghỉ. Không phải như nhân viên phục vụ trường lương thấp, làm từ sáng đến chiều không ngưng tay bởi hết việc này đến việc khác…Chị nghĩ người phụ nghề chứ nghề đâu phụ người, nhờ công việc lao công phục vụ trường học này mà chị nuôi con khôn lớn nên người. Chị nợ ân tình với ngôi trường này, chị có duyên nghiệp với việc phục vụ trong trường học. Sao chị có thể  dễ dàng dứt bỏ được? Bà Năm thì nói hoài, nói mãi: “Con cái cũng lớn bộn rồi, có thể tự lo được rồi. Kiếm việc làm khác cho khỏe hơn, nhiều tiền hơn và để kiếm chồng nữa chứ!”. Chị cười nói với bà Năm: “Làm đâu quen đó bà Năm ơi! Còn chồng hả? Đợi con trúng số tiền tỉ đi, đàn ông xếp hàng cho con lựa.”. Bà Năm và chị cùng cười vang nhà.

***

Cô giáo đứng cạnh chị trên sân khấu nói nhỏ: “Sao chị khóc? Được khen thưởng mà, cười lên chứ! Chụp hình, quay phim kìa.”. Ông cán bộ đến gần chị hơn. Lúc nảy nghe giới thiệu nhưng chị không nhớ chức vụ của ông ấy, chỉ biết là ông là sếp lớn. Ông đến bên chị hỏi nhỏ: “Cô là Trần Thị Kim?”, chị khẽ gật đầu. Ông cười, bắt tay chị rồi gắn một huy hiệu lên áo chị. Sau đó, ông trao cho chị bó hoa và giấy chứng nhận được lãnh “Kỉ niệm chương vì sự nghiệp giáo dục.”*. Có phải chị đang mơ…

*Kỉ niệm chương vì sự nghiệp giáo dục: Hình thức khen thưởng của Bộ Giáo dục và Đào tạo tặng 1 lần cho Cán bộ, giáo viên, nhân viên,…có thời gian công tác trong ngành giáo dục từ 20 năm trở lên.

(Kính tặng các cô chú nhân viên trong trường học)

L.P.T