(Vanchuongphuongnam.vn) – Vị sư nữ bước ra cổng chùa trong cái lạnh của cao nguyên. Đà Lạt năm nay lạnh quá. Tiếng chuông mõ công phu như không tan ra được trong buổi sáng mờ sương. Nó cứ quyện vào cái mù mịt ấy mà ngân nga, uể oải. Bước chân xuống dốc, bỗng dừng lại đột ngột khi bà chợt thấy chiếc thùng giấy đặt giữa đường mòn. Tò mò, bà bước lại gần và mở ra xem:
Nhà văn Chinh Văn
– Nam mô a di đà Phật. Bà thảng thốt kêu lên.
Trong đó là một đứa bé được quấn bởi chiếc khăn thổ cẩm cũ rách. Nó khóc nghe như tiếng mèo con. Nước da sẫm màu của nó trở nên xanh tái. Một đứa bé gái người dân tộc. Nhưng dân tộc nào? Mạ, Chu ru, hay K’ho…thì bà không tài nào phân biệt được. Tay run run vì hốt hoảng, chân run run vì già yếu, bà bế nó lên và đi vào chùa.
Từ đó, nó được nuôi sống bằng tình thuơng của các ni cô. Tiếng kệ lời kinh nuôi dưỡng tâm hồn nó thay cho những lời ru. Thể xác nó lớn lên dần bằng những bữa cơm chay. Vậy là nó được sống kiếp người và được đặt cho một cái tên: Diệu Liên – một đóa sen đẹp dù nó được nhặt trước cổng chùa trên núi.
Sự hiện diện của Diệu Liên trong chùa đã làm ngôi cổ tự ấm lên. Các ni cô cũng bận rộn hơn nhưng họ thấy vui hơn. Lòng từ bi, bác ái đã được thực thi. Các cô vui khi nó biết cười và lo lắng mỗi khi bé lên cơn nóng sốt. Cứ mỗi mùa dã quỳ qua đi thì bé thêm khôn lớn và nay bé đã đến trường.
Ngoài giờ học ở trường, Diệu Liên quấn quít bên các ni cô để chăm hoa, nhổ cỏ và bắt đầu tu tập. Bé bây giờ như búp sen non cứ lớn lên trong yêu thương. Bông sen ấy không mọc ở đầm lầy mà xuất hiện trên cao nguyên lộng gió. Nó bắt đầu tỏa hương, khoe sắc nhưng không phải là hương sắc trần tục mà là sự sáng dần của trí huệ và Phật pháp.
Sau cơn mưa chiều, bầu trời quang đãng hơn nhưng mây cứ là đà lưng chừng núi. Cỏ hoa vốn dĩ đã xanh tươi giờ như được tắm gội thêm. Đà Lạt được mệnh danh là xứ sở của ngàn hoa. Tất cả đều là kỳ hoa dị thảo. Trời bắt đầu lạnh nhưng Diệu Liên vẫn ngồi trầm tư trên tảng đá trước sân chùa. Tay cô mân mê một bông hoa nhỏ, mắt hướng về phía núi xa xa. Cô đã thành một thiếu nữ. Miên man trong suy nghĩ, Diệu Liên nhớ có lần đã hỏi các ni sư trong một bữa cơm:
– Trong các sư phụ ở đây, ai là mẹ đẻ ra con?
Diệu Liên đã ý thức được thân phận. Các ni cô bất giác nhìn nhau. Ni sư ngọt ngào giải thích:
– Tất cả đều là mẹ của con nhưng mỗi người đẻ ra con theo một cách khác. Diệu Liên chăm chú lắng nghe nhưng có vẻ không được thỏa đáng. Nó lặp lại câu hỏi lần nữa nhưng lần nầy rơi vào im lặng. Diệu Liên đọc được sự im lặng đó.
Đã là nữ sinh lớp mười một nhưng Diệu Liên được nhà trường “ưu tiên” không buộc mặc đồng phục. Thầy cô và bạn bè cũng đã quen với trang phục đặc biệt của nữ sinh nầy. Vậy là hết năm sau Diệu Liên sẽ tốt nghiệp bậc học phổ thông. Điều đó đồng nghĩa với việc cô phải rời ni viện để vào Đại học. Cô bắt đầu hoạch định tương lai: Tiếp tục đi tu hay vào đời?. Nếu rời chùa thì chọn ngành nào?
Hình ảnh cô giáo dạy tiếng Anh từ thiện cho chùa là thần tượng của Diệu Liên. Cô ấy không chỉ đẹp mà còn dịu dàng, học cao hiểu rộng. Đáng quý hơn nữa là ở tấm lòng của cô, ở công việc từ thiện của cô. Diệu Liên ngưỡng mộ lắm. Nó học nơi cô không chỉ kiến thức mà còn tất cả những gì cô đã nói, đã làm. Hay là mình học Sư phạm để theo bước chân cô?. Nhưng mình không được đẹp như cô. Trong đầu bé gái mới lớn nghĩ vậy. Thế nhưng, những lần lên núi hái thuốc với các ni cô lại khiến Diệu Liên có ý nghĩ khác: Mình cũng có thể theo học đông y để sau này làm thầy thuốc như các sư phụ cũng là một cách giúp đời, một cách tu.
Số phận của mỗi con người có con đường đi riêng của nó. Diệu Liên thi đỗ vào trường Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh. Vậy là cô theo học Đông y ở khoa Y học cổ truyền. Chưa từng biết Sài Gòn, chỉ một lần được sư phụ dẫn đi thi nhưng thời gian dài sắp tới sẽ là những tháng năm Diệu Liên gắn bó với Sài thành. Cô cảm thấy lo lắng lắm. Sài Gòn – Đà lạt là con đường mỗi năm Diệu Liên vài lượt đi về. Khoa Y học Cổ truyền và Ni viện Nguyên An là lộ trình gắn bó của cô suốt mấy năm Đại học.
Ngày tốt nghiệp trường Y là ngày vinh dự nhất của Diệu Liên và cũng là ngày hạnh phúc nhất của vị Ni sư đã nhặt được cô hai mươi bốn năm về trước. Trong trí não của bà, hai hình ảnh cứ đan xen hiện về: Một đứa bé xám ngắt trong thùng giấy trước cổng chùa quấn chiếc khăn cũ rách, bẩn thỉu và một Cử nhân y khoa với áo thụng, mũ bình thiên. Diệu Liên vui đến rưng rưng. Cô miên man trong ý nghĩ: Áo mũ ấy dành cho vị Ni sư già đứng cạnh cô mới đúng ý nghĩa thiêng liêng của nó. Tan lễ, một già một trẻ dìu nhau bắt xe về Đà Lạt trong niềm hân hoan khôn xiết.
Đà Lạt vào đông, cái lạnh càng trở nên se sắt. Đây là khoảng thời gian thành phố nầy được gọi là “thành phố mù sương” thực thụ. Mùa đông ở xứ sở nầy từ tháng mười hai đến tháng hai. Nhiệt độ ngoài trời dao động thường thì từ chín độ đến dưới hai mươi độ. Thời tiết và cảnh quan thiên nhiên mùa nầy đẹp nhất trong năm. Hoa ban bắt đầu nở trắng trên cành cao trụi lá. Dưới nền trời xanh biếc trông nó càng rực rỡ. Ngắm hoàng hôn, ngắm hoa là một thú vui tao nhã tuyệt vời.
Xúng xính trong những chiếc ào choàng, áo khoác đủ màu, các cụ trong viện dưỡng lão túm tụm bên bàn trà sau bữa cơm chiều. Viện dưỡng lão nầy cũng do Ni viện Nguyên An lập nên và được mang tên Nguyên Phúc. Các cụ ông nói huyên thuyên đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, chuyện thế thái nhân tình. Xen vào đó là những lời than của các cụ bà về bệnh tình xương khớp đau nhức mỗi độ vào đông:
– Từ ngày có cô bác sĩ trẻ về đây là bệnh tôi đỡ hẳn. – Tiếng một bà cất lên. Tiếng một cụ bà khác đáp lại:
– Tôi cũng vậy, cô ấy thật giỏi và cũng thật dễ thương. Cô chăm sóc bọn già chúng mình như chăm chính ông bà cô ấy.
Những lời đối đáp cứ vậy mà râm ran làm ấm lên những buổi chiều.
– Tôi quên mất cô ấy tên gì – tiếng một bà lão hỏi.
Từ ghế đá bên kia, giọng một cụ ông nói với sang:
– Các bà không thấy bảng tên trên bàn cô ấy sao? Bác sĩ Trần Diệu Liên.
Biết rõ hơn hết về bác sĩ nầy là vị ni sư già nhưng bây giờ bà yếu lắm.
Và rồi cuộc sống ở đây cứ thế trôi đi trong yên ả. Thời gian cứ theo dòng chảy của nó mà làm băng hoại và vùi lấp cái cũ rồi khai sinh và nuôi dưỡng cái mới lớn lên. Ni sư già bây giờ không còn đi đứng được. Tuổi già đã thu gọn thế giới của bà trong một chiếc giường. Mọi sinh hoạt của sư phụ đều phải nhờ vào tay của các ni cô. Bà không sang Viện dưỡng lão mà nằm lại trong Ni viện để các ni cô tiện bề chăm sóc. Tất nhiên không thể thiếu sự hiện diện của bác sĩ Diệu Liên. Tình yêu thương và thuốc thang cũng không mạnh hơn qui luật của tạo hóa. Mọi người đau buồn tiễn biệt sư phụ nhưng trong lòng cũng có chút an yên vì thầy mình đã về chốn niết bàn và cho rằng sự mất mát nầy được bù đắp bằng hoa khai Phật quốc. Những giây phút cuối cùng của ni sư chỉ một mình Diệu Liên chứng kiến. Chính cô là người báo tin sư phụ ra đi vì đêm đó chỉ mình cô túc trực bên giường bệnh. Điều kỳ diệu là gương mặt phúc hậu của ni sư rạng rỡ lên như một nụ cười khi Diệu Liên đưa tay vuốt mắt cho bà.
Mãi đến khi vào lần cúng thất đầu tiên của sư phụ, Diệu Liên đem điều nầy nói với các ni cô thì được các vị nữ tu nầy nói ra sự thật: Ni sư chính là người mang lại sự sống cho Diệu Liên gần ba mươi năm về trước. Nước mắt Diệu Liên nhỏ xuống cuốn kinh. Trời ơi! Sao lại có sự sắp đặt nầy. Sư phụ đã mang cô từ cõi chết trở về rồi bây giờ Diệu Liên bất lực nhìn ân nhân của mình đi vào cõi vĩnh hằng.
Có đến hàng mấy tháng trời, mỗi đêm khi nghe tiếng chuông mõ công phu vọng ra từ Ni viện, đó cũng là lúc nước mắt Diệu Liên lại trào ra.
C.V