“Hương sắc phù sa” tắm mát hồn thơ người xa xứ

902

Lê Xuân

    (Đọc tập thơ “Hương sắc phù sa” của Đặng Tuyết – NXB Hội Nhà văn, 2024)

(Vanchuongphuongnam.vn) – Nhà thơ người Nga Ilia Erenbua đã viết: “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào đại trường giang Vonga. Con sông Voga đi ra biển. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Trong mỗi chúng ta ai mà chẳng có một làng quê, một quê hương, nơi “chôn rau cắt rốn” để thương, để nhớ. Và nếu ai đó “Quê hương nếu ai không nhớ/ Sẽ không lớn nỗi thành người” (Đỗ Trung Quân).  Đặng Tuyết đã viết hàng trăm bài thơ về quê hương trong 6 tập thơ đã in. Tình đất, tình người luôn lắng dộng, day dứt cùng vui buồn trên mỗi bước đi của chị.

Từ Hà Tĩnh xa xôi, về với Cần Thơ “gạo trắng nước trong” gần nửa thế kỷ nay, và chị xem mảnh đất này là quê hương thứ hai như máu thịt của mình. Những miệt vườn cây trái xum xuê, kênh rạch đầy tôm cá với hai mùa mưa nắng “Miền Nam hết nắng rồi mưa/ Cho cam lắm trái cho dừa thêm xanh/ Sầu riêng nặng trĩu trên cành/ Mãng cầu măng cụt ngon lành biết bao/ Lúa xanh dưới trận mưa rào/ Sông sâu nước chảy dạt dào tình quê” (Ca dao mới). Phù sa sông Tiền, sông Hậu tắm mát bao vùng đất và chảy mãi với hồn thơ người xa xứ để chị đem “Hương sắc phù sa” toả lên khắp trang thơ, trang đời.

Nhà thơ Đặng Tuyết

        Với “Hương sắc phù sa” chị vẫn tiếp nối mạch nguồn cùng dòng chảy ở các tập thơ trước về đề tài: quê hương, gia đình, xã hội, tình yêu Tổ quốc, Đảng, Bác, về những anh hùng, liệt sĩ, về tình thầy trò, bè bạn với bao kỷ niệm đẹp chân thực và lãng mạn.

       Tập thơ với 63 bài với đủ thể loại: tự do, lục bát, đường luật, thơ 1-2-3 (một loại thơ mới do nhà thơ Phan Hoàng khởi xướng trãi nghiệm) cùng với 5 bản nhạc do nhạc sĩ Huy Thọ và nhạc sĩ Phan Bá Kiệt phổ thơ chị ở cuối tập thơ. Điều đó phần nào đã nói lên thơ Đặng tuyết rất giàu tính hoạ, tính nhạc.

     Đề tài xuyên suốt tập thơ là “quê hương” ở miệt vườn Nam Bộ với con nước lớn nước ròng đem phù sa tắm mát cây trái, hoa màu, toả hương sắc vương vào không gian, thời gian và neo lại trong hồn người. Tình đất, tình người thật sâu nặng trong hồn ngời xa xứ:

                 Tình người vùng đất Chín Rồng

          Hương phù sa quyện giữa lòng Tây Đô.

   Ta hãy nghe âm thanh cuộc sống trên sông của một phiên chợ nổi ở Cái Răng, hay Phong Điền:

            Bình minh gọi con nước về

Ngược dòng phố thị bốn bề nổi trôi

         Ngập ngừng vang tiếng gọi mời

Tiếng rao kẻ bán từng lời vang xa.

           (Nặng hạt phù sa)

     Hình ảnh “con nước” lặp đi lặp lại ở nhiều bài thơ như một điệp khúc làm nổi bật sắc thái đặc trưng của vùng đất Nam bộ. Có nước lớn, nước ròng, nước nhảy, nước đứng, nước kém, nước rong, nước ươn, nước lụt, nước đổ… và “con nước chiều buông” đã đi vào trang thơ:

             Mập mờ con nước triều buông

    Phù sa trĩu nặng hoàng hôn trôi dài.

                            (Mập mờ con nước)

Hay:    Nhọc nhằn con nước triều lên

  Sớm khuya góc phố lênh đênh phận người

                            (Con nước triều lên)

Hoặc:     Cù lao con nước vơi đầy/ Mời anh ghé lại nơi đây miệt vườn.

Cuộc sống của thương hồ lênh đênh trên sông nước gắn liền với giọng hò, điệu lý và lời ca vọng cổ – nét đặc sắc của cư dân Nam Bộ từ ngày đi mở cõi:

               “Tình anh bán chiếu” rưng rưng

     Nỗi niềm riêng gửi dặm trường xa xăm

                    (Ta lại về đất phương Nam )

    Ở vùng đất trẻ mới hình thành hơn 300 trăm nay, những cư dân ngày đó luôn phải đối đầu với thiên nhiên hoang dã, thú dữ rình rập “dưới sông sấu lội trên rừng cọp um”, hoặc “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội như bánh canh” nhưng họ vẫn đầy nghị lực, lạc quan yêu đời để sống và chống chọi với thiên nhiên quái ác và giặc ngoại xâm tàn bạo. Tới đâu ở vùng đất này ta luôn được nghe lời ca tiếng hát vang lên. Bài “Dạ cổ hoài lang” của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác 1919 ở Bạc Liêu  hay bài “Tình anh bán chiếu” của nghệ sĩ nhân dân Viễn Châu sáng tác năm 1959 được xem như là hơi thở, là tiếng lòng của giới mộ điệu đờn ca tài tử và người dân Nam Bộ:

                Nghe câu “Dạ cổ hoài lang”

    Từ miền sông nước phương Nam ngọt ngào

              (Thương câu vọng cổ)

 Nghe câu hò điệu lý nơi tận cùng Tổ quốc “Tổ quốc ta như một con tàu/ Mủi thuyền ta đó Mũi Cà Mau” (Xuân Diệu) lòng xao xuyến bồi hồi như nghe tiếng tiền nhân năm nào đi mở cõi:

                Nghe khúc hát tiếng lòng người mở đất

               Văng vẳng giọng hò khúc hát phương Nam

               Tới một lần thôi ta thầm yêu đất Mũi

               Dải đất thiêng liêng thắm đượm tình người.

                                  (U Minh Hạ ơi)

     Chị nhìn giọt nắng và những giọt phù sa phương Nam mà thấy lòng ngân vang những rung động theo nhịp phách của sáu câu vọng cổ: “Tương tư hạt nắng vàng/ Mênh mang lời vọng cổ/ Ngân mãi xứ miệt vườn”. Có thể nói tình đất, tình người ở xứ miệt vườn này thật cao đẹp thân thương bất chấp hai mùa mưa nắng hay nước lớn nước ròng. Một loạt bài thơ chỉ đọc tên các đầu bài đã thấy tràn ngập hương sắc. Nào là sông Tiền, sông Hậu, nào cù lao Dung (Sóc Trăng), cù lao Ông Hổ (An Giang) hay cù lao Tân Lộc (Thốt Nốt), nào là chợ nổi Cái Răng, Phong Điền, Ngã Bảy, nào vườn cò Bằng Lăng (Thốt Nốt), bến Ninh Kiều (Cần Thơ), rồi quýt hồng Lai Vung (Đồng Tháp), dâu Hạ Châu, cam xoàn Phong Điền, khóm Cầu Đúc… và bao món ngon vật lạ nơi đây với hàng trăm loại bánh dân gian luôn chào mời du khách, đúng là “Ai đi tới đó lòng không muốn về”. Tất cả đều hiện lên như sờ nắm được ở những vần thơ giàu tính hoạ tính nhạc của chị.

      Đặng Tuyết đã lấy Cần Thơ làm quê hương thứ hai hơn nửa đời người, nên đi đâu, làm gì, nghĩ gì cũng thắm đượm sắc thái miệt vườn. Chị nhận phố làm quê, đếm nhịp thời gian để nhặt tìm câu chữ cho những vần thơ. Từ thành phố Cần Thơ, được xem là Tây đô của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, bàn chân chị đã qua hầu hết các nẻo đường của 13 tỉnh để đi làm từ thiện và sáng tác thơ. Tới đâu cũng được bạn bè và bà con quý mến. Tới đâu chị cũng ghi lại những cảnh, những người, những nét đặc trưng của vùng đất đó. Từ bông hoa ngọn cỏ, trái cây, bông súng, lục bình, bông điên điển tới cánh cò, con đò, dòng sông, cầu tre, cầu khỉ gập ghềnh khó đi hay bến nước, ao hồ, câu ca điệu lý… đều ùa vào thơ chị như chính cuộc sống sống vậy. Cảnh sắc bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông luôn hiện lên theo mỗi chặng đường chị đi qua, và chị ghi lại “nhật ký bằng thơ” đáp tình bè bạn.

     Riêng có một thể thơ mới – Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng khởi xướng và thể nghiệm được nhiều bạn yêu thích và sáng tác, chị cũng góp mặt nhiều bài và ở tập thơ này chị đưa 6 bài chọn lọc: Cơn mưa ập tới, Hè về, Tháng sáu trời mưa, Mênh mang giọng hò, Ký ức, Đồng vàng lúa trải phía chân đê. Đây là thể thơ có 6 câu được quy định chặt chẽ cho từng câu về số từ và sự gắn kết. Và chị đã thành công. Đây là cảnh tan trường thật đáng yêu trong ký ức ùa về:

         Ta nhẹ bước vào hành trang mới

         Tiếng ve sâu ra rả gọi về nhau

         Những kỷ niệm học trò lặng tâm cảm thẳm sâu

                                    (Ký ức)

     Thơ Đặng Tuyết dù viết ở đề tài nào, chủ đề nào, thể loại nào cũng ánh lên một niềm lạc quan yêu đời. Niềm hy vọng ấy là chất men làm say lòng người, nó cứ trải dài theo mỗi bước chân của chị trên mỗi cung đường ở miệt vườn hay phố thị. Qua nhân vật trữ tình chị đem nhiều thông điệp đa sắc đa thanh đến người đọc, người nghe, hướng họ tới chân trời của Chân, Thiện, Mỹ. Xin trân trọng giới thiệu tập thơ mới “Hương sắc phù sa” giàu chất hiện thực và trữ tình của nhà thơ – thiện nguyện Đặng Tuyết cùng bạn đọc.

                             L.X