Kiệt tác – Truyện ngắn Vũ Đức Nghĩa

Loading

(Vanchuongphuongnam.vn) – Phải đến ngày thứ tư, khi thiên hạ đồn ầm lên về phòng tranh của họa sĩ Hoàng, tôi mới có dịp đến xem.

Tác giả Vũ Đức Nghĩa

Quả là tiếng đồn không sai. Phòng tranh diện tích chỉ một trăm mét vuông mà người xem đông nghẹt. Mặt tiền cũng có nhiều lợi thế, nhưng cái chính là tình yêu đối với nghệ thuật và trình độ thẩm mỹ của dân ta, rõ ràng đã được nâng lên ngang tầm thời đại. Một sự đông đúc, trầm trồ bình phẩm hiếm có xưa nay ở một phòng tranh. Người ta dừng lại khá lâu trước bức tranh treo ở góc phòng – bức tranh ấy có nhan đề: Tự họa.

Người thì nói đây là cách thể hiện của trường phái siêu thực.

Có người lại bảo: Bức tranh được vẽ theo trường phái ấn tượng.

Không… – anh chàng đeo kính cận quả quyết – tác giả đã kết hợp hài hòa giữa hiện thực và cổ điển”. Anh ta kết luận: Kiệt tác.

Hầu như tất cả mọi người đứng chung quanh anh đều thấy rằng, đó là một nhận xét có trọng lượng, đầy sức thuyết phục. Không ai dám nói thêm, chỉ còn biết gật gù, thán phục – thán phục cả tác giả làm nên kiệt tác và người bình phẩm.

Giá trị của bức tranh còn được một nhân vật đã và đang từng sống ở một đất nước văn minh nhất nhì thế giới góp phần khẳng định. Ông ta đứng sau đám đông, dáng vẻ chăm chú và lịch sự. Ông ta nheo nheo đôi mắt làm nổi lên những nếp nhăn thông thái và uyên bác. Có thể đây mới chính là một vị giám khảo khắt khe và tinh tường hội họa. Hình như đã đánh giá và cân nhắc kỹ, ông ta quyết định, thò tay vào túi, lấy ra 30 tờ 100 đô-la. Ông ta đến trước mặt họa sĩ Hoàng, trịnh trọng:

– Tôi trả anh đúng giá đã niêm dưới bức tranh.

Một thoáng ngạc nhiên, nhưng ngay sau đó, họa sĩ Hoàng lại có vẻ như là hối tiếc. Tuy vậy anh cũng nhận tiền rồi đến góc phòng gỡ bức tranh “Tự họa” trao cho người đàn ông sành điệu. Người đàn ông ngoại quốc lịch sự bắt tay họa sĩ, hơi cúi người, chào tạm biệt. Vừa bước ra khỏi cửa, cô gái vẫn khoác tay ông ta (không biết là vợ hay tình nhân, người Việt Nam “chính cống”, còn rất trẻ) đã líu lo, hỏi nhỏ:

– Bức tranh này người ta vẽ cái gì hở anh?

Người đàn ông giải thích cho cô gái, giọng Tây, giọng ta lơ lớ:

– Với trình độ dân trí ở Việt Nam thì khoảng năm 2030 mới có thể hiểu được giá trị của kiệt tác này…

Ít nhất, có vài người tỏ ra khó chịu, nhưng trong bụng, chắc là cam chịu, khâm phục trình độ thẩm mỹ của người ngoại quốc.

Ngay sau cuộc triển lãm tranh nghệ thuật, tôi tìm gặp họa sĩ Hoàng. Tôi phải đấu tranh mãi, và cuối cùng quyết định: Thà hy sinh, lột áo cho người xem lưng, mình là kẻ dốt đặc cán mai về cái khoản hội họa để biết cho được bức tranh mà Hoàng đã bán cho người ngoại quốc kia, vẽ cái gì?

Dĩ nhiên, muốn học được một bài học khôn chẳng bao giờ đơn giản. Cũng may, tôi là chỗ quen biết nên được Hoàng châm chế. Khi biết tôi hỏi chuyện bức tranh, anh bảo: “Về thời gian, tôi sẽ tiếp ông buổi chiều nay. Còn học phí: một chai “nếp mới” cộng với bọc tôm khô, củ kiệu”.

Tôi lập tức quay đầu ra phố, truy lùng cho bằng được khoản lệ phí mà họa sĩ yêu cầu. Khi trở lại, tôi đã thấy một mâm thịnh soạn, toàn là cao lương mỹ vị.

Chúng tôi nâng ly, anh tuyên bố:

– Ông đến thật đúng lúc, tôi cũng có một nỗi niềm cần chia sẻ.

Vẻ mặt anh có vẻ buồn? Lạ, vừa gặt hái một thành công to đến thế.

Nhưng đến ly thứ năm thì anh bắt đầu cao hứng, thao thao bất tuyệt. Anh cứ vỗ vỗ vào lưng tôi an ủi:

– Không có gì phải băn khoăn bạn ạ. Cái bức tranh ấy mà… 3.000 đô-la, kể ra bán được cũng là chuyện lạ. Nhưng mà, suy cho cùng… đó cũng là một nghệ thuật.

Tôi giương mắt nhìn anh – như một chú học trò mẫu giáo ngồi nghe giảng viên cao cấp thuyết trình về giải tích, đạo hàm. Hiểu cái nhìn của tôi, anh cười:

– Xưa nay, người ta đã từng biến không thành có, cái hữu hạn trở thành vô hạn… là thường – anh chấm một ngón tay vào ly nước vẽ xuống mặt bàn con số 1 – cậu xem đây: Con số một là một số thực, một con số tự nhiên hữu hạn, nhưng ta chỉ việc cho thêm vào sau lưng nó những con số không (anh lại nhấn ngón tay vào ly nước rồi vẽ những con số không). Thấy chưa, chỉ là dãy những con số không vô nghĩa nhưng chúng đã biến con số 1 trở thành con số mười (10) số một trăm (100) số một nghìn (1000), một triệu (1.000.000), một tỷ (1.000.000.000)…Vậy thì cái bức tranh kỳ quặc, một tờ giấy vấy bẩn nghiễm nhiên trở thành kiệt tác cũng là điều dễ hiểu.

Tôi vẫn lắc đầu:

– Không thể hiểu nổi!

Lúc ấy, chú mèo lông vàng từ trong xó bếp õng ẹo đi ra (chắc là ngửi thấy mùi tôm khô). Họa sĩ Hoàng liền đưa tay chộp ngay lấy cô nàng. Cung cách anh ta âu yếm, hôn hít chẳng khác gì một nhà hiếm con, bốn năm mươi tuổi mới tòi ra được một cô gái rượu. Anh ta vừa hít hà, vừa cưng nựng: “Mày ấy, nuôi không uổng, xí xớn thế mà hay. Người đời cứ ngoác miệng ra bảo “cái trò mèo”. Còn mày, giỡn chơi một phát cũng bằng tao phấn đấu cả đời”. Quay sang tôi, anh lại cười: “Cái cô bé này này (con mèo). Hôm ấy mình đang vẽ, nó cứ quấn bên chân, không may mình đạp phải đuôi cô ả, cô ả giật mình nhảy vào mấy hộp mực mầu, làm đổ tung, đổ toé. Mình đã cầm cây thước định tặng vào lưng cho cô ả một roi, nhưng nàng đã nhảy sang một tờ bìa ngồi thu lu, ra vẻ ân hận lắm. Thấy tội nghiệp, mình ân xá. Cái bức tranh vàng vàng, đỏ đỏ, xanh xanh ấy – chính là cái đít con mèo, bốn cái chân và cái đuôi đẫm mực của cô nàng – tự họa! (Anh cười). Lẽ ra mình đã gởi vào sọt rác, nhưng nhìn kỹ cũng thấy hay hay, ngồ ngộ nên còn để đấy. Hôm treo tranh, góc tường ở cuối phòng triển lãm loang lổ toàn những vệt ẩm mốc, và dấu tích đóng đinh từ những cuộc treo tranh lần trước, thế là mình lên khuôn “tác phẩm” của cô mèo treo lên cho kín chỗ, ai ngờ, nó lại trở thành “kiệt tác”.

Tôi chỉ kịp à lên một tiếng. Còn anh, vẫn tiếp tục rót rượu và rót bầu tâm sự:

– Những thằng đứng túm tụm gần bức tranh, khen khen, chê chê, có anh em mình đấy… tựu trung… tất cả cũng đều là nghệ thuật.

Tôi buột miệng nói theo anh: “Nghệ thuật!”.

V.Đ.N